Bệnh án 22: Viêm gan mạn tính
Tôi (Việt Hà) thường gặp một số bệnh nhân có những triệu chứng: đau dưới sườn phải, ăn vào tức anh ách, hay khó tiêu, đại tiện khi táo khi không, tiểu tiện hơi vàng, miệng đắng, mắt có vàng nhẹ, da vàng không rõ rệt. Cụ thể có ông Chiêu, công an huyện; ông Bích, hưu trí ở xã Sơn Trung; ông Trần Tạo ở xã Sơn Trường, mạch thường sác. Tôi nhận xét đều là những trường hợp viêm gan mạn tính, trước có tiền sử viêm gan, gan bị uất nhiệt, can huyết hư, công năng gan bị suy giảm.
Cần dưỡng huyết, thư can uất, thanh can nhiệt để hồi phục chức năng gan; đồng thời làm cho tỳ khỏe, tiêu hóa tốt, trừ thấp nhiệt.
Cho uống Đơn chi tiêu dao tán thêm Hương phụ, Thanh bì, Chỉ xác, Nhân trần, Rau má đều thu kết quả tốt.
Bài thuốc:
Bạch linh: 8g
Thanh bì: 4g
Đơn bì: 8g
Bạch thược: 8g
Nhân trần: 20g
Đương quy: 10g
Bạch truật: 8g
Chỉ xác: 4g
Chi tử: 8g
Sài hồ: 10g
Rau má: 20g
Hương phụ (sao Giấm): 8g
Cam thảo đất: 10g
Gừng tươi: 3 lát.
Sắc uống ngày 1 thang.
– Nếu thiếu Bạch truật thì dùng Hoài sơn 10g.
– Nếu thiếu Bạch linh thì dùng Thổ Phục linh 10g.
– Không có Đương quy thì dùng Kê huyết đằng 12g.
Bệnh án của Lương y Việt Hà
(Trích trong Tâm đắc và nghiệm án)
Bệnh án 23:
Bệnh nhân: Huỳnh Văn Ch., 63 tuổi
Địa chỉ: Người ở ấp Mỹ An xã Nhị Mỹ, Cai Lậy, Tiền Giang.
Vọng: Thần sắc uể oải, da mặt, mắt đều vàng sáng tươi.
Văn: Hơi thở bình thường.
Vấn: Bệnh nhân khai bị nóng lạnh kéo dài cả năm, đã điều trị qua Tây y suốt thời gian 6 tháng từ bệnh viện Cai Lậy rồi đến Bệnh viện Chợ Rẫy cũng không thuyên giảm. Bệnh kéo dài đến nay vẫn một triệu chứng ớn lạnh dọc xương sống, rồi kế đó lạnh toàn thân, bệnh nhân phải hơ lửa hoặc xông hơi nước nóng. Sau khi qua cơn lạnh rồi thì bệnh nhân nóng và đổ mồ hôi. Cứ 2 – 3 ngày lên cơn nóng lạnh 1 lần khoảng 2 – 3 giờ đồng hồ rồi hết, ăn được nhưng khó tiêu, đầy hơi, da bụng dày, hay buồn nôn, đau lâm râm vùng thượng vị, da mặt, niêm mạc mắt vàng tươi.
Thiết mạch: trung huyền hữu lực.
Quy nạp bát cương: bán biểu bán lý
Quy nạp hội chứng bệnh lý: Bệnh này do can mộc khắc tỳ thổ, vì mạch huyền là chủ mạch của can, thổ hư cho nên vọng thấy da mặt vàng; thường hay buốn nôn vì can dương thịnh khắc chế tỳ thổ; tỳ khí thượng nghịch; ăn được nhưng khó tiêu, vì tỳ khí hư không kiện vận được thức ăn. Bệnh tuy đã lâu nhưng tà còn lưu lại ở Túc thiếu dương đởm và Túc quyết âm can, cho nên cách ngày có làm cử sốt rét, lạnh trước sốt sau; nhiệt tà kích động can dương lấn quá tỳ thổ cho nên lợm giọng, buồn nôn, đầy hơi, khó tiêu; niêm mạc mắt và da mặt vàng tươi do thổ thư tượng ra bản sắc.
Xử phương: Trước hết dùng Thanh tỳ ẩm, thêm: Hà thủ ô 10g, Thần thông 8g, Nhân trần 10g, Thảo quả 3 trái. Sắc uống ngày 1 thang.
Sau khi uống thuốc liên tục 10 ngày, bệnh nhân hết làm cử sốt rét, da mặt, mắt bớt vàng, ăn uống vào không bị buồn nôn lợm giọng nữa.
Tái khám thấy mạch đi trầm hoãn, các triệu chứng sốt rét cách nhật dứt hẳn, chỉ còn niêm mạc mắt, da mặt hơi vàng, thỉnh thoảng còn đau vùng thượng vị, đổi dùng Hoắc hương chính khí, thêm:
Nhân trần: 10g
Thảo quả nướng: 3 trái
Nghệ: 8g
Chi tử: 8g
Mướp gai: 20g
Rễ tranh: 8g
Cho uống kèm thêm Hóa tích hoàn 10 ngày nữa bệnh lành hẳn.
Bệnh án của Lão y Võ Văn Hỷ
(Trích trong 92 bệnh án hay)
Bệnh án 24: Viêm gan siêu vi trùng
Bệnh nhân: Ngô Đăng Phúc, 45 tuổi
Chức vụ: Bí thư Đảng ủy trạm máy kéo tỉnh Thanh Hóa
Nơi chuyển đến: Ban Bảo vệ Sức khỏe tỉnh
Ngày vào viện: Ngày 3 tháng 2 năm 1971
Ngày ra viện: Ngày 25 tháng 2 năm 1971
Chứng bệnh: Bệnh nhân đã điều trị tại Bệnh viện Nông Cống, bệnh viện tỉnh. Các bệnh viện chẩn đoán: Bệnh viêm gan siêu vi trùng.
Khi đến bệnh viện Đông y, bệnh nhân bụng to, da vàng, mắt vàng, lưỡi hơi xám, giữa bụng nóng, lòng bàn tay, bàn chân nóng, nước tiểu vàng đậm, ăn vào vùng hạ sườn bên phải đau, thường sốt 38 độ C. Sau khi vào viện, khám: gan sa khoát ngón tay dưới hạ sườn phải.
Chẩn đoán:
– Tây y: Thiểu năng gan, viêm gan siêu vi trùng.
– Đông y: Can khí uất kết.
Dùng thuốc:
Đại hoàng: 12g
Thanh bì: 12g
Ô dước: 12g
Nhân trần: 13g
Hương phụ: 12g
Chỉ xác: 12g
Cho uống 4 thang 1 tuần.
Khám lại: Các triệu chứng đều giảm, hết sốt, nhưng ăn còn chậm tiêu, đại tiểu tiện lỏng, gan còn hạ sườn 1 khoát ngón tay.
Cho dùng tiếp 4 thang như trên, giảm Đại hoàng, tăng Nhân trần, Chi tử.
Tiếp tục cho dùng thêm 8 thang nữa, các triệu chứng đều giảm, khỏi bệnh, cơ thể tăng cân, da mặt, tay chân hết vàng, hết sốt, đại tiểu tiện bình thường, ăn ngủ được. Sau đó cho dùng thêm 4 thang Tiêu giao gia giảm:
Bạch linh: 12g
Hương phụ: 12g
Chỉ xác: 12g
Bạch thược: 8g
Cam thảo: 4g
Ô dước: 12g
Chi tử: 12g
Bạch truật: 8g
Mạch nha: 12g
Ý dĩ: 12g
Cát cánh: 12g
Xuyên quy: 12g
Uống hết 4 thang, bệnh nhân bình phục, được xuất viện.
Bệnh án của Bệnh viện YHDT Thanh Hóa
(Trích trong Tập nghiệm lâm sàng – Nguyễn Văn Toàn)
Bệnh án 25: Viêm gan mạn tính
Bệnh nhân: cháu Lê Đình Q., 15 tuổi
Ngày vào viện: Ngày 26 tháng 10 năm 1970
Ngày ra viện: Ngày 12 tháng 12 năm 1970
Chứng bệnh: Cháu đã nằm điều trị ở Bệnh viện tỉnh Việt Trung 3 tháng. Bệnh viện chẩn đoán viêm gan mạn tính.
Tình hình bệnh nhân khi chuyển đến bệnh viện Đông y: gan sa 3 cm dưới hạ sườn phải, da vàng, bụng da dày, tiểu tiện ít, nước tiểu vàng, ăn vào chậm tiêu, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng, đại tiện phân táo màu vàng, hông sườn đau, lách to dưới bờ sườn 1 cm, thường thường chiều có sốt nhẹ, mạch huyền sác.
Dùng thuốc:
Trư linh: 12g
Huyền hồ: 8g
Bạch thược: 8g
Ý dĩ: 12g
Chỉ xác: 12g
Ô dước: 12g
Chi tử: 12g
Xuyên quy: 8g
Trạch tả: 12g
Nhân trần: 12g
Bạch linh: 10 – 12g
Mộc thông: 8g
Cho uống 4 thang 1 tuần.
Sau 1 tuần uống thuốc, khám lại: Các triệu chứng đều giảm, da bụng còn dày, ăn còn chậm tiêu.
Cho dùng 16 thang:
Đại hoàng: 4g
Cát cánh: 12g
Bạch linh: 8g
Nhân trần: 16g
Xuyên quy: 8g
Sơn tra: 8g
Trạch tả: 12g
Ý dĩ: 12g
Bạch truật: 8g
Mạch nha: 8g
Bắc mộc hương: 4g
Chi tử: 12g
Chỉ xác: 12g
Cam thảo: 4g
Nga truật: 12g
Sau khi uống hết thuốc, khám lại: Các triệu chứng đều khỏi, chỉ còn hơi đau tức vùng hạ sườn.
Cho uống tiếp 8 thang, giảm Đại hoàng, tăng Bạch thược.
Khám lại: Gan bình thường, hết đau, da bụng mỏng, hết vàng da, tiểu tiện nhiều, người thể trạng tốt, ăn uống bình thường, cho xuất viện
Bệnh án của Bệnh viện YHDT Thanh Hóa
(Trích trong Tập nghiệm lâm sàng – Nguyễn Văn Toàn)
Theo Healthplus.vn