I. Siêu âm B gan nhiễm mỡ có những đặc điểm biểu hiện gì?
Khi có 10% tế bào gan xuất hiện mỡ biến tính, hình ảnh siêu âm B sẽ xuất hiện khác thường; 30% tế bào gan mỡ biến tính, dùng siêu âm B đã có thể chuẩn đoán, kiểm tra siêu âm B, gan nhiễm mỡ hiện ra những đặc điểm sau:
1. Tính đồng đều của gan tăng lên, bề mặt sáng bóng, hình tròn nổi gồ lên, góc mép to lên.
2. Nửa phía trước mặt cắt của gan, điểm sáng to lên, hồi thanh khỏe lên hơn hẳn mức bình thường, biểu hiện “gan sáng”.
3. Nửa phía sau mặt cắt của gan, hồi thanh giảm nhỏ, nhưng bộ phận hồi thanh giảm nhỏ không có mép rõ rệt.
4. Ảnh chụp đường ống trong gan hiện lên không rõ nét, hồi thanh mạch của thành động, tĩnh mạch không hiện lên, tĩnh mạch gan thu nhỏ.
Căn cứ kết quả kiểm tra siêu âm B, có thể phân gan nhiễm mỡ thành 3 mức: Nhẹ, vừa, nặng (xem biểu 2).
Biểu 2: Biểu hiện gan nhiễm mỡ
Phân mức |
Hồi thanh ở nửa phía trước mặt cắt của gan |
Hồi thanh ở mức phía sau mặt cắt của gn |
Bằng sáng mặt gan |
Mức nhẹMức vừa
Mức nặng |
Hơi tăng to, tăng mạnhTo mà mạnh
Tăng to, mạnh rõ rệt |
Hơi hạ thấpHơi hạ thấp
Mất đi |
Tồn tạiHạ thấp
Không hiện lên |
II. Bệnh lý của gan nhiễm mỡ biểu hiện như thế nào?
Hoạt kiểm gan là phương pháp đáng tin cậy duy nhất để chuẩn đoán định tính và định lượng, phán đoán mức độ viêm gan, hoại tử và xơ hóa. Do nó là cách kiểm tra mang vết thương nếu hiện nay ứng dụng chưa rộng rãi.
Hoạt kiểm gan có thể giải quyết ba mặt của vấn đề, tức là phán đoán loại gan nhiễm mỡ, mức độ nặng nhẹ của gan nhiễm mỡ và phân kỳ gan nhiễm mỡ.
Căn cứ vào đường kính hạt mỡ tế bào gan, gan nhiễm mỡ có thể phân thành gan nhiễm mỡ bọt nhỏ và gan nhiễm mỡ bọt to. Trong tế bào gan phân bố nhiều giọt mỡ nhỏ từ 3 – 5 um, hạch tế bào vẫn ở trung tâm, tức là nhiễm mỡ gan bọt nhỏ, có thể thấy ở cuối kỳ mang thai, chứng tổng hợp Reye hoặc trúng độc tetracyline và các chất đôc khác, cũng có thể thấy ở thấy tiền kỳ gan nhiễm mỡ bọt lớn hoặc thời kỳ hồi phục, tình huống nói trước phục hồi kém, tình huống nói sau phục hồi tương đối tốt. Nếu hạt mỡ trong tế bào gan dung hợp lớn thành hạt có đường kính lớn hơn 25um, hạch tế bào và nhân tế bào bị chèn ép phải di chuyển vi trí thì gọi là nhiễm mỡ gan bọt lớn, thường thấy ở người thích uống rượu, béo phì, bệnh tiểu đường, dinh dưỡng không tốt, trúng độc thuốc.
Căn cứ vào mức độ biến tính mỡ trong tế bào gan, nhiễm mỡ gan cũng có thể phân thanh 3 mức nhẹ, vừa, nặng. Khi xem trong kính hiển vì mớ biến tính liên lụy tới 10% – 30% tế bào gan của lá nhỏ, là gan nhiễm mỡ mức nhẹ; khi 30% – 50% tế bào gan trong gan lá nhỏ phát sinh mỡ biến tính, là nhiễm mỡ gan mức vừa, khi 50% tế bào gan phát sinh mỡ biến tính là viêm gan mức nặng.
Căn cứ vào tình hình viêm, hoại tử và xơ hóa của gan, sau nhiễm mỡ phân thành 3 thời kỳ là gan nhiễm mỡ đơn thuần, viêm gan do mỡ và gan xơ cứng do mỡ. Gan nhiễm mỡ đơn thuần chỉ thấy ở mỡ tế bào gan biến tính. Viêm gan do mỡ là nói trên cơ sở mỡ tế bào gan biến tính kèm theo biến tính, hoại tử và viêm tế bào gan nhuận ướt, có thể nhỏ Mallory kèm theo xung quanh tĩnh mạch trung tâm và xung quanh tế bào gan xơ hóa. Gan xơ cứng do mỡ là kế phát các bộ phân xơ hóa tăng sinh và lá gan nhỏ hình thành do gan nhiễm mỡ ở mức nặng.
III. Viêm gan do virut cùng phát với gan nhiễm mỡ có những biểu hiện gì?
Gan nhiễm mỡ và viêm gan do virut cũng thuộc bệnh gan, biểu hiện trên lâm sàng có lúc khó lòng phân biệt riêng. Viêm gan do virut phát theo gan nhiễm mỡ, không có biểu hiện gì đặc biệt. Dù như vậy, do bệnh tình nặng nhẹ khác nhau, biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân cũng không hẳn hoàn toàn giống nhau. Nhưng người bệnh viêm gan do virut kèm theo gan nhiễm mỡ, thông thường viêm gan trước, sau mới đến gan nhiễm mỡ. Nếu người bệnh viêm gan do virut, trong thời kỳ điều trị đang hồi phục, chứng trạng viêm gan lại xuất hiện, chỉ tiêu công năng gan bị dao động thì có thể nghĩ là có khả năng gan nhiễm mỡ. Cố gắng phát hiện sớm, chuẩn đoán sớm, điều trị sớm.
Theo Healthplus.vn