BỆNH WHIPPLE (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột).
Bệnh whipple là một rối loạn kém hấp thu hiếm gặp, do nhiễm khuẩn ruột với các biểu hiện toàn thân lan rộng. Khám nghiệm mô học của một mẫu sinh thiết niêm mạc ruột non phát hiện các tế bào đơn nhân lớn có bọt chứa đầy các tế bào cho một phản ứng biến màu acid Schiff dương tính theo chu kỳ. Kín hiển vi điện tử phát hiện những trực khuẩn Whipple trong ruột, mắt, tim, phổi, hoạt dịch, thận và hệ thần kinh trung ương. Bệnh xuất hiện chủ yếu ở những người trung niên và bắt đầu âm thầm. Không điều trị, bệnh này thường gây tử vong. Các biểu hiện bao gồm đau bụng, tiêu chảy, phân ngấm mỡ, xuất huyết dạ dầy-ruột, sốt, sung hạch lympho, viêm đa khớp, phù, da màu xám tới nâu và những biểu hiện nặng của hệ thần kinh trung ương. Thường có thiếu máu và giảm protein huyết.

Các chương tình điều trị còn đang tranh luận về vài khía cạnh nhưng phải được duy trìu trong ít nhất 1 năm và phải bao gồm dùng các thuốc vượt qua được hang rào máu-não. Các lựa chọn hiện thời là (1)trimethoprim-sulfamethoxazol (TMP-SMZ) dơn độc, một viên bọc có gấp đôi nồng độ /12 giờ trong 1nam hoặc (2) penicillin procain, 600.000 đv tiêm bắp cộng với streptomycin, 0,5g tiêm bắp hai lần/ ngày trong 10 ngày và tiếp theo bằng TMP-SMZ như ở trên. Sự xuất hiện lại các triệu chứng sau hoặc trong điều trị làm nghĩ đến xuất hiện vi sinh vật kháng thuốc và phải thay các kháng sinh.
BỆNH RUỘT MẤT PROTEIN
Sự rò rỉ protein vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương. Trong một số trạng thái bệnh đường ruột, sự mất protein quá mức vào ốn ruột có thể gây nên giảm protein huyết. việc mất protein huyết tương quá mức có thể do tăng độ thấm protein của niêm mạc, rỉ dịch viêm, bong vẩy tế bào quá mức hoặc rò rỉ bạch huyết từ các mạch dưỡng trấp bị tắc. Các bệnh dạ dầy-ruột liên kết với bệnh ruột mất protein bao gồm tất cả các bệnh niêm mạc tiên phát của ruột non, cũng như ung thư biểu mô dạ dầy, u lympho, phì đại nếp gấp dạ dầy, các bệnh do ký sinh trùng vv.
VIÊM RUỘT THỪA
Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán
• khó chịu lúc đầu ở quang rốn, tiếp theo là đau bụng ở góc phần tư dưới bên phải bụng và tăng cảm đau khi sờ chạm vào với các dấu hiệu kích thích màng bụng.
• chán ăn, buồn nôn và nôn và táo bón.
• Sốt nhẹ, tăng bạch cầu đa nhân nhẹ.
Các nhận định chung
Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, di vật hoặc khối u ác tính. Tiếp thep tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vạch ruột thừa. Áp lực trong lòng ruột phát triển nhanh, có xu hướng gây ra hoại tử vách sớm và thủng. Các lứa tuổi và hai giới đều mắc bệnh, nhưng viêm ruột thừa thường gặp hơn ở nam giới ở độ tuổi 10 tuổi và 30 tuổi.
Viêm ruột thừa là một trong các nguyên nhân thường gặp nhất của bụng ngoại khoa cấp tính. Các triệu chứng và dấu hiệu thường một mô hình khá rập khuôn, nhưng viêm ruột thừa có thể biểu hiện từng trường hợp không rõ ràng về nhiễm khuẩn huyết và đau trong ổ bụng.

Phát hiện lâm sàng
A. Các triệu chứng và dấu hiệu một cơn cấp phát viêm ruột thừa thường bắt đầu với đau thượng vị hoặc quanh rốn kết hợp với một hoặc hai đợt nôn. Trong vòng 2-12 giờ, đau chuyển sang phần tư dưới bên phải bụng, ở đó tiếp tục như một chỗ đau nhức đều đều, đau tăng lên khi đi bộ hoặc ho. Có sốt nhẹ, chán ăn, khó chịu vừa phải. Táo bón thường xẩy ra, nhưng đôi khi tiêu chảy, buồn nôn và nôn cũng vậy.
Lúc bắt đầu không thấy các dấu hiệu khu trú song trong vòng vài ba giờ có thể xác định tăng cảm giác đau khi sờ nắn ở phần tư dưới bên phải bụng. Bệnh nhân thường chỉ một cách chính xác ngón tay vào vùng này, đặc biệt làm rõ chỗ đau bằng cách ho. Gõ nhẹ vào phần tư dưới bên phải bụng giúp định vị rõ vị trí đau. Thường có cảm giác đau nẩy lại và đau thắt các cơ bụng nằm ở trên. Các dấu hiệu cơ thắt lưng và cơ bịt, khi dương tính, gợi ý nhiều về viêm ruột thừa. tăng cảm giác đau trực tràng là thương gặp trong viêm ruột thừa khoang chậu, có thể rõ ràng hơn là tăng cảm giác đau bụng. Nhu động ruột giảm hoặc mất. Có sốt nhẹ tới trung bình.
B. Các phát hiện labo tăng bạch cầu vừa phải (10.000-20.000 /ul) và thường có tăng bạch cầu trung tính. Không hiếm thấy có đái mâu và đái mủ qua soi hiển vi.
C. Ghi hình ảnh không có thay đổi đặc biệt trên phim X quang. Tuy nhiên, việc nhìn thấy ở phần tư dưới phải bụng một bóng cản quang phù hợp với sỏi phân trong ruột thừa có thể làm tăng nghi ngờ viêm ruột thừa. Trong những ca không chắc chắn, thụt barit được sử dụng vì việc nhìn rõ được toàn bộ ruột thừa sẽ loại trừ viêm ruột thừa cấp tính. Ghi âm ký vi tính thời gian cộng hưởng thực, chẩn đoán viêm ruột thừa và viêm ruột thừa biến chứng có độ nhậy 90% và độ đặc hiệu 98% với độ chính xác chung 96%-tốt nhất từng đạt được và đã giảm tỷ lệ mở bụng không cần thiết.
Các yếu tố gây nên các biến thể khác với hình ảnh lâm sàng “điển hình”
A. Vị trí giải phẫu của ruột thừa các phát hiện ở bụng được chắc chắn nhất khi ruột thừa ở trong hố chậu hoặc ở vị trí nông. Khi ruột thừa kéo dài qua vành khung chậu, các dấu hiệu bụng có thể tối thiểu vì tăng cảm giác đau được khai thác rõ nhất khi thăm trực tràng. Tăng cảm giác đau ở phần tư dưới phải bụng được khu trú kém phát triển chậm trong viêm ruột thừa sau manh tràng hoặc hồi tràng. Viêm ruột thừa nằm cao ở bên bụng có thể gây ra tăng tối đa cảm giác đau ở mạn sườn và ở cung phần tư dưới trái bụng ở vị trí đảo ngược. Các vị trí bất thường của ruột thừa có thể hiếm xẩy ra, liên quan với manh tràng di động ỏ không xuống thấp, trong những trường hợp ấy, các triệu chứng và dấu hiệu có thể khu trú ở cung phần tư trên phải hoặc trái.
B. Tuổi già các bệnh nhân già thường có ít hoặc không có tiền triệu. các phát hiện ở bụng có thể không gây ấn tượng với tăng nhẹ cảm giác đau và phản ứng bảo vệ cơ không đáng kể trước khi xẩy ra thủng ruột. Sốt và tăng bạch cầu cũng ở mức tối thiểu hoặc không có. Khi đếm bạch cầu không tăng cao, sự chuyển dịch sang trái là bằng chứng quan trọng nhất của viêm nhiễm.
C. Béo phì béo phì thường làm tăng sự khó khăn đánh giá do làm chậm các dấu hiệu bụng và ngăn cản sự định vị nhanh chóng.
Theo Healthplus.vn