Viêm dạ dầy ruột cấp tính là rối loạn rất hay nhầm lẫn với viêm ruột thừa. Trong những ca hiếm, nó có thể hoặc xẩy ra trước hoặc cùng thời gian với viêm ruột thừa. Nôn và tiêu chảy thường gặp hơn. Sốt và đếm bạch cầu có thể tăng lên đột ngột và có thể không cân xứng với các phát hiện bụng. Việc định vị đau và tăng cảm giác đau thường không dứt khoát và luôn di chuyển chỗ. Nhu dộng tăng là đặc biệt. Thường viêm dạ dầy-ruột có đợt cấp tính. Một thời kỳ theo dõi nhận xét thường làm sáng tỏ chẩn đoán.
Việm hạc mạc treo có thể gây các triệu chứng và dấu hiệu giống như viêm ruột thừa. Song, thường có một vài đầu mối cho chẩn đoán đúng. Viêm hạch mạc treo thường hay xẩy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên; nhiễm khuẩn hô hấp là tiền sử bệnh thường gặp; định vị đau tăng khi sờ nắn ở cung phần tư dưới phải là kém chính xác và không cố định, ít khi thấy phản ứng bảo vệ thành bụng có thật sự. mặc dù nghi ngờ nhiều về viêm hạch mạc treo, thường vẫn được khuyên cắt bỏ ruột thừa là an toàn hơn chấp nhận rủi ro biến chứng viêm ruột thừa do trì hoãn.
Viêm túi thừa Meckel có thể giống với viêm ruột thừa. Định vị của tăng cảm giác đau có thể ở vùng bụng giữa hơn nhưng đây không phải là tiêu chuẩn chẩn đoán đáng tin cậy vì phẫu thuật đều cần cho cả hai bệnh, việc phân biệt không phải thật là quan trọng. Khi mổ thăm dò cho thấy chẩn đoán viêm ruột thừa trước mổ là lầm, điều thiết yếu là xem xét đoạn 150 chứng minh cuối của hồi tràng để tìm xem có viêm túi thừa Meckel và viêm hạch mạc treo hay không. Viêm ruột khu vực, bệnh amip, viêm hồi tràng do trực khuẩn giả lao Yersina, ổ loét tá tràng thủng, cơn đau niệu quản, viêm ống dẫn trứng cấp tính, đau bụng do thuốc, vỡ vòi trứng do chửa ngoài tử cung, và u nang buồng trứng xoắn cũng có thể nhầm lẫn với viêm ruột thừa. Viêm phổi thùy dưới phải đôi khi liên quan với đau nổi bật ở cung phần tư dưới phải của bụng.
Biến chứng
A. Thủng viêm ruột thừa hiếm khi thuyên giảm đi một cách tự phát. Nó là một bệnh không tiên đoán trước được với xu hướng rõ rệt (khoảng 95%) bị tiến triển và thủng. vì thủng hiếm khi xẩy ra trong 8 giờ đầu, các theo dõi chẩn đoán trong thời kỳ này là tương đối an toàn. Các dấu hiệu thủng bao gồm đau và tăng cảm giác đau khi sờ nắn trở nên thêm trầm trọng, đau thắt ở cung phần tư dưới phải kèm theo bằng chứng về viêm màng bụng toàn bộ hoặc áp xe khu trú. Tắc ruột, sốt, khó chịu, tăng bạch cầu trở nên rõ rệt hơn. Nếu thủng với hình thành áp xe và viêm màng bụng toàn bộ đã xẩy ra trước khi bệnh nhân đến bác sỹ, chẩn đoán có thể khá khó khăn. Điều trị viêm ruột thừa thủng là cắt bỏ ruột thừa trừ phi một áp xe ở đúng cung phần tư dưới phải của bụng hoặc khung chậu đã được ngăn cách với ruột thừa. Các biện pháp hỗ trọ giống như đối với viêm ruột thừa.
1. Viêm màng bụng toàn bộ các phát hiện lâm sàng và điều trị được thảo luận ở phần khác trong chương này.
2. Áp xe ruột thừa khó chịu, nhiễm độc, sốt và tăng bạch cầu thay đổi từ tối thiểu lên đến rõ rệt. Thăm khám phát hiện một khối đau khi chạm vào ở cung phần tư dưới phải hoặc khung chậu. Các áp xe trong khung chậu có xu hướng lồi vào trực tràng hoặc âm đạo.
Các áp xe thường dễ thấy 2-6 ngày sau khi bắt đầu nhưng liệu pháp kháng sinh có thể trì hoãn sự xuất hiện. Áp xe ruột thừa đôi khi là dấu hiệu đầu tiên và duy nhất của viêm ruột thừa và có thể lầm lẫn với u ác tính của manh tràng, đặc biệt ở những người già, họ có thể có ít hoặc không có phản ứng toàn thân nhiễm khuẩn.
Điều trị áp xe sớm bằng liệu pháp kháng ính kết hợp (như ampicillin, gentamycin, và metronidazole hoặc clindamycin ). Với chế độ điều trị này, áp xe thường sẽ tiêu tan. Cắt bỏ ruột thừa phải được thực hiện 6-12 tuần sau. Một áp xe tiến triển chậm trễ ở cun phần tư dưới phải của bụng phải được dẫn lưu ngay không chậm trễ. Áp xe khung chậu đòi hỏi dẫn lưu khi nó lồi vào trực tràng hoặc âm đạo và đã trở thành bập bềnh.
B. Viêm tĩnh mạch cửa viêm tắc tính mạch mưng mủ của hệ cửa với áp xe gan là một biến chứng hiếm nhưng gây từ vong cao nhất do bệnh này. Phải ngi ngờ khi sốt nhiễm khuẩn, rét rub, gan to và vàng da phát triển sau khi thủng ruột thừa. Liệu pháp kháng sinh phối hợp tăng cường với dẫn lưu ngoại khoa các ổ áp xe được chỉ định.
C. Các biến chứng khác bao gồm áp xe dưới hoành và các ổ khác của nhiễm khuẩn huyết trong ổ bụng. Tắc ruột có thể do các chỗ dính gây nên.
Điều trị
A. Chăm sóc trước mổ
1. Theo dõi để chẩn đoán trong vòng 8-12 giờ đầu, các triệu chứng và dấu hiệu của viêm ruột thừa thường là chưa chắc chắn. Trong các hoàn cảnh này, vấn đề thiết yếu là để một thời lỳ theo dõi sát. Bệnh nhân được để nằm nghỉ tại giường và không cho uống thuốc gì. Lưu ý : không được cho các thuốc nhuận tràng nghi ngờ viêm ruột thừa hoặc bất kỳ thể nào của viêm màng bụng. Tránh dùng các thuốc ngủ nếu có thể, nhưng làm an thần bằng các tác nhân an thần thì không chống chỉ định. Các thăm khám bụng, trực tràng, đếm bạch cầu được nhắc lại định kỳ. Các phim ổ bụng và lồng ngực ở tư thế thẳng phải coi là một phần của việc điều tra các vấn đề chẩn đoán khó khăn. Trong phần lớn các ca viêm ruột thừa, chẩn đoán được xác minh bằng sự khu trú các dấu hiệu vào phần tư dưới bụng trong vòng 12 giờ sau khi bắt đàu có các triệu chứng.
2. Đặt ống trước mổ, đặt một ống thông mũi-dạ dầy nếu có viêm màng bingj hoặc nhiễm độc ở mức độ đủ để chứng tỏ rằng liệt ruột sau mổ có thể gây rắc rối. Ở những bệnh nhân như vậy, hút và rửa dạ dầy nếu cần, và bệnh nhân được gửi đến phòng mổ với ống đặt tại chỗ.
3. Dùng kháng sinh khi có phản ứng toàn thân rõ rệt với nhiễm độc nặng và sốt cao, việc cho các kháng ính trước khi mổ là nên làm (thí dụ, chế độ thuốc nêu ở trên, tuy có nhiều khả năng lựa chọn ).
B. Điều trị ngoại khoa trong viêm ruột thừa không biến chứng, cắt bỏ ruột thừa được thực hiện ngay khi sự mất cân bằng chất dịch và các rối loạn toàn thân quan trọng khác được chế ngự. thường không cần chuẩn bị nhiều. Phẫu thuật sớm có tỷ lệ chết là một phần của 1%. Tỷ lệ biến chứng và chết liên quan với bệnh này phản ánh sự xuất hiện hoại thư hoặc thủng ,mà phẫu thuạt bị trì hoãn.
C. Điều trị cấp cứu không bằng ngoại khoa khi không có sẵn các cơ sở, trang bị phẫu thuật hãy điều trị như là đối với viêm màng bụng câp. Với chế độ điều trị này, viêm ruột thừa cấp tính có thể thuyên giảm và các biến chứng được giảm thiếu.
Tiên lượng
Với chẩn đoán chính xác và cắt bỏ ngoại khoa sớm. các tỷ lệ biến chứng và chết là tối thiểu. Sự trì hoãn chẩn đoán gây ra các tỷ lệ chết và biến chứng đáng kể nếu các biến chứng xẩy ra.
Các đợt cấp tái diễn luôn có thể xẩy ra nếu không cắt bỏ ruột thừa. hiện này không tồn tại “viêm ruột thừa mạn tính”.
Theo Healthplus.vn