I. Làm thế nào phán đoán được khúc trương tĩnh mạch thực quản?
Theo đường kỹ thuật nội soi phát triển, ứng dụng lt bằng kinh soi dạ dày điển tử rõ nét cao, có thể quan sát được mức độ, vị trí, màu sắc rất tỉ mỉ. Từ mức độ khúc trương mà xét, khúc trương tĩnh mạch thực quản có thể phân thành 3 mức: Nhẹ, vừa và nặng. Khúc trương tĩnh mạch mức nhẹ chiếm cứ đoạn dưới thực quản, thành đường thẳng hoặc đường vòng, đường kính <3cm. Khúc trương tĩnh mạch mức vừa chiếm cứ đoạn dưới, đoạn giữa thực quản hình vong to như rắn lượn, dgd kính tĩnh mạch 3 – 5mm, khúc trương tĩnh mạch mức nặng chiếm cứ toàn bộ thực quản, dạng hình đốt kết hoặc hình bướu, đường kính > 6mm. Ngoài ra dưới gương có lúc còn thấ khúc trương tĩnh mạch trên bề mặt xuất hiện sợ vân sắc đỏ hoặc bọt huyết, gọi là chứng sắc đỏ. Đó là do thành huyết quản biến mỏng, chứng tỏ sắp tới có thể xuất huyết, cần được lưu ý cao độ.
Mức độ khúc trương tĩnh mạch càng nặng, hệ số xảy ra xuất huyết càng cao. Khúc trương tĩnh mạch thực quản ở mức độ nhẹ, ngoài kèm theo loét, vữa nát, thông thường không dẫn đến xuất huyết. Người bị xuất huyết, mức độ tĩnh mạch khúc trương hầu như đều ở mức vừa trở lên, chứng hồng sắc thường là dương tính, kèm theo viêm thực quản, thực quản bị loét, hệ số xuất huyết ở người bị loét thực quản rất cao. Ăn gượng, phàm ăn phàm uống, tâm tình bị kích động, đại tiện, táo bón đều là nguyên nhân gây nên khúc trương tĩnh mạch.
II. Làm thế nào phòng ngừa được phần trên đường tiêu hóa xuất huyết khi gan xơ cứng?
Người bị gan xơ cứng dễ có nguy cơ bị xuất huyết cao, muốn tránh được nhân tố gây nên huyết phần trên đường tiêu hóa, cấm ăn đồ xào rán, thức ăn cứng dễ đâm cào đường tiêu hóa, cấm uống rượu, tránh tâm tình bị xúc động mạnh, cần nhuận trường thông đại tiện, đề phòng áp lực khoang bụng dâng cao và áp dụng phương pháp dưới đây phòng ngừa xuất huyết:
1. Thuốc dự phòng: Thử liều β ngăn trệ nhue Betaloc, Spirnolactone, có thể hạ thấp áp tĩnh mạch cửa của gan, đề phòng xuất huyết.
2. Điều trị bằng liều thuốc làm xơ cứng nội soi: Loại bỏ thực quản đáy dạ dày lhtr tĩnh mạch có thể dự phòng xuất huyết trong giai đoạn ngắn.
3. Phẫu thuật dự phòng: Có thể phẫu thuật phân lưu hoặc cắt đứt huyết lưu, dùng thuật giá đỡ trong gan qua tĩnh mạch. Theo kết quả nghiên cứu của nước Nhật, người bệnh có sự thay thế tốt, dự phòng bằng phẫu thuật có thể làm giảm các ca xuất huyết, hạn chế tử vong.
4. Phẫu thuật làm tắc nghẽn gan: Cắm ống qua tĩnh mạch cửa của gan, cắm vào tĩnh mạch trái của dạ dày, bơm vào liều tắc nghẽn, làm cho tĩnh mạch thực quản bị khúc trương tắc nghẽn.
III. Làm thế nào phán đoán được lượng huyết xuất ra sau khi bệnh nhân bị xuất huyết phần trên đường tiêu hóa?
Người bị xuất huyết phần trên đường tiêu hóa thường phân đại tiện có vết máu, xét nghiệm dương tính, phân đen, nôn ra huyết, ngất xỉu, căn cứ vào những biểu hiện này, có thể sơ bộ phán đoán được lượng huyết xuất ra:
1. Đại tiện phân có máu, xét nghiệm dương tính cho thấy mỗi ngày xuất huyết chừng 5ml trở lên.
2. Khi xuất hiện phân đen, thông thường mỗi ngày xuất huyết 50 – 75 ml trở lên.
3. Khi lượng huyết tồn tại trong dạ dày 250 – 300ml có thể dẫ đến nôn ra máu.
4. Nếu lượng xuất huyết không quá 400ml, do lượng huyết giảm đi ít, có thể được các bộ phận tích trữ huyết bổ sung, thường không dẫn đến chứng trạng toàn thân.
5. Khi phần trên đường tiêu hóa xuất huyết lớn, đặc biệt là mất huyết rất nhanh, lượng xuất huyết lớn hơn 500ml đều có thể xuất hiện đầu váng, mất sức, tim hồi hộp, tim đập quá nhanh, huyết áp tụt xuống. Nếu lượng xuất huyết càng lớn, chứng trạng càng rõ rệt, có thể dẫ đến ngất xỉu do thất huyết.
IV. Thế nào là điều trị làm cứng tĩnh mạch khúc trương ở thực quản dạ dày
Liệu pháp làm cứng qua nhìn trực tiếp từ gương soi chất xơ dạ dày hoặc gương soi điện tử dạ dày, tiêm thuốc làm cứng vào trong hoặc vùng xung quanh tĩnh mạch thực quản khúc trương làm cho tĩnh mạch khúc trương phát sinh nghẽn mạch, các bộ phận xung quanh phát sinh xơ hóa không lây nhiễm, mà đạt đac mục đích cầm máu. Hiệu quả cầm máu được khẳng định, có thể ứng dụng cho người có công năng gan kém, có hoàng đản, có phúc thủy. Thuốc làm cứng có thể làm tĩnh mạch khúc trương biến thành chất keo dính, hiệu quả càng tốt nhưng giá thành cao hơn nhiều. Sau khi phẫu thuật 24 – 48 giờ, người bệnh có thể sốt nhẹ, đau phía sau lồng ngực, sau thực quản có thể bị lỡ loét, có lỗ thủng và thu hẹp lại.
Sau khi điều trị làm cứng, khoảng 2 năm sẽ không tái phát xuất huyết đường tiêu hóa.
Theo Healthplus.vn