Bệnh án 7: Viêm gan B truyền nhiễm
Bệnh nhân: Từ XX, nữ, 26 tuổi.
Chứng bệnh: Bệnh nhân mắc bệnh viêm gan B truyền nhiễm không vàng da đã hơn 4 tháng. Kiểm tra Transaminase glutamic 200 đơn vị, HAA dương tính, cảm giác vùng gan đau, kinh nguyệt đến muộn, lưỡi tím, rêu mỏng bẩn.
Chẩn đoán: Nguyên nhân do can bị ứ nhiệt uất kết lại không hóa được.
Biện chứng Đông y: Thấp nhiệt uất kết chưng đốt, khí trệ huyết ứ.
Phép chữa: Thanh nhiệt, hóa ứ.
Dùng thuốc: Tê trạch thang
Trạch lan: 15g
Thổ phục linh: 30g
Bình địa mộc: 30g
Bại tương thảo: 15g
Đối tọa thảo: 30g
Quảng Tê giác (tán bột uống): 3g
Sắc uống ngày 1 thang.
Cho uống bài thuốc Tê trạch thang nói trên gia giảm điều trị.
Sau khi điều trị, các xét nghiệm chức năng gan đều hồi phục như thường, HAA âm tính, kinh nguyệt bình thường, theo dõi 3 năm không thấy tái phát, sức khỏe tốt.
Bàn luận: Bài thuốc Tê trạch thang có hiệu quả tốt khi dùng cho bệnh viêm gan mạn tính thời kỳ hoạt động, có tác dụng làm giảm men Transaminase và phản ứng Hanger tốt. Qua theo dõi lâm sàng nhận thấy bột Quảng Tê giác đối với viêm gan mãn kéo dài mà Transaminase không giảm rất có tác dụng; đồng thời làm cho HAA chuyển làm âm.
Bệnh án của Nhan Đức Hinh ở Thượng Hải
(Trích trong Thiên gia diệu phương)
Bệnh án 8: Viêm gan mạn tính kéo dài
Bệnh nhân: Trịnh…, nam, 45 tuổi.
Chứng bệnh: Bệnh nhân mắc bệnh viêm gan mạn tính đã 7 năm; 3 năm trước đã kiểm tra phát hiện HAA dương tính, gần 1 năm lại đay chuyển sang âm tính. Người bệnh chóng mặt, vùng gan có lúc thấy đau, mệt mỏi, mặt đỏ, người bệu, miệng đắng khô, người bứt rứt không ngủ được, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch huyền tế sác. Kiểm tra: gan dưới bờ sườn 1 cm, độ cứng I – II, không sờ thấy lách, Transaminase trên 500 đơn vị, phản ứng Hanger (+++), HAA (-), AFP (-).
Chẩn đoán: Viêm gan mạn tính kéo dài.
Biện chứng Đông y: Can thận âm hư kèm thêm thấp.
Phép chữa: Dưỡng âm, bổ can thận, lợi thấp.
Dùng thuốc: Tam ô nhân trần thang gia vị
Thủ ô: 15g
Ô mai: 9g
Đơn bì: 9g
Sinh địa: 12g
Cam thảo: 6g
Ô đậu y: 9g
Miên nhân trần: 15g
Thiền y: 4g
Đương quy: 6g
Sắc uống ngày 1 thang.
Bệnh nhân uống được 1 tháng, kiểm tra Transaminase còn 210 đơn vị, các chứng trạng đều chuyển biến tốt. Tiếp tục dùng bài thuốc trên gia giảm cho uống thêm 1 tháng nữa, toàn bộ chức năng gan khôi phục trở lại bình thường.
Bệnh án của Trần Khánh Toán và La Chí Cường ở Quảng Đông (TQ)
(Trích trong Thiên gia diệu phương)
Bệnh án 9: Viêm gan mạn kéo dài
Bệnh nhân: Hồ X, nữ, 32 tuổi
Chứng bệnh: Bệnh nhân bụng trướng đầy, mặt vàng, người gầy ốm, chân thũng, kém ăn, táo bón, 2 – 3 ngày đi đại tiện 1 lần, ngủ ít. Đã điều trị uống một số thuốc hơn nửa năm nhưng chưa có chuyển biến.
Chẩn đoán: Viêm gan mạn.
Biện chứng Đông y: Khí trệ, thấp trở.
Phép chữa: Lý khí, khử thấp.
Dùng thuốc: Hoàng Thũng hoàn
An quế: 15g
Nhân trần: 120g
Khô phàn: 45g
Đậu khấu: 24g
Đậu đen: 100g
Đinh hương: 15g
Phụ phiến: 60g
Gạo nếp: 250g
Nội kim: 45g
Các vị thuốc đem tán bột mịn, rây, luyện với Mật làm viên to bằng hạt Đậu nành. Mỗi lần uống 10g, ngày uống 3 lần, uống với nước sôi nguội hoặc nước muỗi loãng.
Kiêng kỵ: Trong thời gian uống thuốc, kiêng cữ thức ăn có dầu mỡ, hành, tỏi, ớt, gừng, cá tanh.
Bệnh nhân uống thuốc 1 liều, mọi triệu chứng đều khỏi, chứng bế kinh nhiều năm cũng hết.
Bàn luận: Bài thuốc Hoàng thũng hoàn vốn là bài thuốc gia truyền. Thực tiễn lâm sàng dùng chữa bệnh viêm gan mạn tính gan lách sưng to đạt được hiệu quả điều trị tốt, dần dần được chấp nhận sử dụng.
Trong bài thuốc dùng An quế, Phụ phiến, Đậu khấu nhân để ôn bổ tỳ thận; Nhân trần, Nội kim để tả thấp nhiệt ở kinh Can; Đinh hương, Hắc đại đậu (Đậu đen), Nhu mễ (Gạo nếp) để kiện tỳ. Cái hay là ở vị thuốc Khô phàn, xuất phát từ Tiêu thạch phàn thạch tán trong sách Kim quỹ của Trương Trọng Cảnh. Dùng bài thuốc này điều trị bệnh với các triệu chứng nói trên có kết quả rất tốt.
Bệnh án của Chu Tổ Kinh ở Giang Tây (TQ)
(Trích trong Thiên gia diệu phương)
Bệnh án 10: Viêm gan mạn tính thời kỳ hoạt động
Bệnh nhân: Lý XX, nữ, 38 tuổi
Địa chỉ: Người ở huyện Thường Đức
Khám ngày: 18 tháng 5 năm 1974
Chứng bệnh: Từ tháng 1 năm 1971 người bệnh mắc bệnh viêm gan cấp thể vàng da, nằm viện điều trị 3 tháng, cơ bản lành bệnh, xuất viện. Năm 1974, bệnh phát lại, nằm viện điều trị 5 tháng, lúc đó Transaminase không giảm, có lúc lên đến 600 đơn vị, bệnh nhân yêu cầu chuyển lên Bệnh viện tỉnh để điều trị. Qua kiểm tra, gan to dưới bờ sườn 2cm, sờ chua thấy lách, xét nghiệm Transaminase 560 đơn vị, phản ứng Malagan 20 đơn vị, phản ứng Hanger (+++), chỉ số hoàng đản bình thường. Bệnh nhân cảm thấy hai bên sườn tức đau, ăn uống không ngon, buồn nôn, tinh thần mỏi mệt, đại tiện phân lúc lỏng lúc khô, tiểu tiện vàng đỏ, miệng đắng họng khô, trong mũi có vảy máu, lòng bàn tay nóng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng bẩn, mạch huyền hơi sác.
Chẩn đoán: Viêm gan mạn tính thời kỳ hoạt động.
Biện chứng Đông y: Can đởm uất nhiệt, vị mất chức năng hòa giáng.
Phép chữa: Sơ can giải uất, thanh nhiệt hòa vị.
Dùng thuốc: Gia vị tứ nghịch tán (thang)
Sài hồ: 10g
Chỉ thực: 10g
Đan sâm: 10 – 15g
Mạch nha: 15g
Hoắc hương: 10g
Cam thảo: 5g
Bạch thược: 10g
Uất kim: 10g
Thần khúc: 10g
Liên kiều: 10 – 15g
Bản lam căn: 15 – 20g
Mao căn: 10g
Sắc uống ngày 1 thang.
Bệnh nhân uống 30 thang, kiểm tra lại chức năng gan: Transaminase 125 đơn vị, phản ứng Maclagan 7 đơn vị, phản ứng Hanger (+), các chứng khác đều hết. Tiếp tục uống 20 thang, kiểm tra chức năng gan toàn bộ khôi phục như thường. Theo dõi 5 tháng, không phát hiện dấu hiệu bệnh lý.
Bàn luận: Ứng dụng bài thuốc Gia vị tứ nghịch tán (thang) tùy từng trường hợp cụ thể mà gia giảm. Đối với viêm gan thể không vàng da, thể vàng da (sau khi cơ bản hết vàng da), viêm gan mạn tính, men Transaminase không giảm đều có tác dụng tốt. Đã dùng bài thuốc này điều trị hơn 50 trường hợp các bệnh tương tự đều đạt hiệu quả mỹ mãn.
Bệnh án của Việt Thượng Cửu ở Hồ Nam (TQ)
(Trích trong Thiên gia diệu phương)
Theo Healthplus.vn