Bệnh trĩ theo từ nguyên Hy Lạp có nghĩa là chảy máu. Theo Goligher thì hơn 50% các người trên 50 tuổi bị bệnh này. Bệnh có thể có ở mọi lứa tuổi, kể cả trẻ con. Đàn ông mắc phải gấp đôi phụ nữ.
Về phẫu thuật trĩ đã có rất nhiền ý kiến khác nhau về các phương pháp mổ. Điều đó cho thấy không có phương pháp nào hoàn hảo.
Phương pháp phẫu thuật trĩ.
Tiêc thay, nhiều người cho mổ trĩ là cuộc mổ đơn giản dành cho các phẫu thuật viên trẻ đảm nhiệm. Thực sự, đây là bệnh gây trở ngại cho bệnh nhân không ít và các điều trị cũng như mổ xẻ đòi hỏi những kiếm thức rất sâu rộng và kinh nghiệm. Không nghiêm túc, người mổ có thể để lại những biến chứng, dư chứng không nhỏ cho bệnh nhân.
Mổ trĩ đã được thực hiện cả ngàn năm trước. Vùng hậu môn được xem là có miễn nhiễm cho nên sau mổ vài giờ là vết mổ sẽ bị nhiễm với vi trùng đường ruột, nhờ các loại này gây tình trạng nhiễm nhẹ che chỏ không cho các loại vi trùng gây bệnh mọc lên.
Trước thế kỉ 19, theo Parks chỉ có hai phương pháp mổ. Các xưa nhất là cuống búi trĩ được cột thắt bằng dây từ thời trung cổ. Phương pháp thứ 2 là chỉ cắt trĩ mà không cầm máu. Như thế tất nhiên cuộc mổ này mất nhiều máu, tuy nhiên thường không nguy hiểm lắm.
Mãi đến cuối thế kỉ 18 thì việc giải phẫu thuật cắt trĩ mới được kiện toàn. Salmon phối hợp hai phương pháp vừa cột vừa cắt.
Theo Parks, Salmon không để lại tài liệu nào, chỉ có Allingham là có tường trình cách này vào năm 1871. Nói chung là các tác giả nói trên bóc tách cẩn thận mỗi búi trĩ ra khỏi cơ thắt hậu môn lên tận phần trên ống hậu môn rồi cột cuống của các búi trĩ. Như vậy thì giải quyết được vấn đề xuất huyết nhưng về sau có một số bệnh nhân bị teo hẹp ống hậu môn.
Một số tác giả khác thay đổi, cải biên một số tiểu tiết nhằm tránh nhược điểm nói trên.
Phẫu thuật trĩ ở Mỹ.
Ở Mỹ, năm 1911, Earle là người đề xướng sau khi bóc tách trĩ thì kẹp ngang cuống trĩ rồi may liên tục trên kẹp. Miles (1919) chỉ bóc tách giới hạn búi trĩ rồi cột (trong đố có phần da nhạy cảm ở hậu môn). Vì vậy sau mổ bệnh nhân rất đau.
Phương pháp của Salmon tương đối không đau vì ông bóc tách lên trên cao khỏi vùng da nhạy cảm của hậu môn.
Tại Anh quốc, Phương pháp của Salmon được cải tiến rồi được Milligan và Morgan mô tả nawm1937. Các tác giả bàn chi tiết về kỹ thuật và nhấn mạnh là phải bóc tách lên cao khỏi giới hạn da-niêm mạc để khi cột không cột vùng da nhạy cảm ở hậu môn.
Theo các tác giả này, giữa các vết mổ phải để lại một vùng niêm mạc lành và rộng, ít nhất là 6 mm để niêm mạc có thể mọc lại tránh teo hẹp hậu môn về sau. Trong phương pháp này phải để ý là nếu lôi kéo quá nhiều đoạn thì trên cơ thắt trong dễ bị cắt theo bó trĩ (Parks). (Hình minh họa).
Năm 1882, Whitehead tả một phương pháp trị trĩ rất tận gốc bằng cách cắt bỏ tất cả vùng có thể có trĩ nghĩa là cắt phần niêm mạc và dưới niêm mạc ở đoạn trên ống hậu môn.
Theo Healthplus.vn