I. Nguyên tắc ăn uống của người bị gan xơ cứng?
Ăn uống của người bị gan xơ cứng cần chú ý trên hai mặt, tức là lượng ăn và cách phối hợp món ăn. Lượng ăn nên bao nhiêu căn cứ nhiệt lượng nhu cầu mà định. Thông thường mỗi ngày cứ 1000g trọng lượng cơ thể ăn đạt nhiệt lượng 30kcal là được (mỗi g đường loại gạo, bột mì có thể cung cấp chừng 4lcal nhiệt lượng, mỗi g mỡ có thể cung cấp 9kcal nhiệt lượng), người bệnh có thể tự mình tính toán lượng ăn cần bao nhiêu. Nhiệt lượng ít quá không đáp ứng được nhu cầu cơ thể, nhiệt lượng quá nhiều làm cho cơ thể gánh chịu nặng hơn, có thể làm kế phát gan nhiễm mỡ, làm bệnh tình nặng hơn.
Phối ghép thành phần món ăn gồm đường, protein, sinh tố, chất xơ, nguyên tố vi lượng. Nhiệt lượng chủ yếu do chất đường cung cấp, nói chung tỷ lệ đường trong món ưn không dưới 40%. Cung caaso đầy đủ đường, vừa thỏa mãn nhu cầu thay thế của cơ thể, lại có thể làm giảm bớt sự phân giải của protein. Khi gan xơ cứng, việc thay thế chất mỡ bị ảnh hưởng, đồng thời việc thay thế mỡ có thể lại là gánh nặng cho gan, vì vậy người bị gan xơ cứng cần hạn chế hấp thu mỡ, giảm bớt gánh nặng cho nếu, tăng cường bổ sung protein và chất đường, phòng ngừa phát sinh gan nhiễm mỡ. Người bị gan xơ cứng thường thiếu vitamin, chất khoáng, nguyên tố vi lượng, đó là món ăn tốt nhất. Người bị phúc thủy hoặc phù nước, phải khống chế muối natri và ít hấp thu nước. Người bị khúc trương tĩnh mạch thực quản và đáy dạ dày, nên ăn ít quả xanh, dầu rán, món ăn có chất xơ thô, đề phòng tồn thường niêm mạc thực quản mà xuất huyết.
II. Người bị gan xơ cứng làm thế nào bổ sung protein qua ăn uống?
Albumin trong huyết tương chỉ có thể hợp thành tròn gan, người bị gan xơ cứng nặng lực hợp thành albumin kém đi, dẫn tới nồng độ albumin bị hạ thấp, đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu sản sinh do phúc thùy. Vì vậy người bị gan xơ cứng cần tăng thêm hàm lượng protein trong ăn uống. Nhưng chất protein được ăn uống sau khi phân giải do tác dụng của một số vi khuẩn trong đường ruột sản sinh ra amminiac, trong trường hợp bình thường có thể qua tác động giải độc của tế bào gan mà loại bỏ, nhưng người bị gan xơ cứng, công năng giải độc của gan yếu đi, chỉ biến đi vào trong cơ thể, có thể dẫn đến bệnh não do gan. Vì vậy, người bị gan xơ cứng khi ăn protein cần kết hợp với ammoniac của huyết và tình hình bệnh não do gan.
Người bệnh khi ammoniac trong huyết bình thường, không có bệnh não do gan có thể ăn tăng thêm protein. Ammoniac trong huyết tăng cao nhưng không có bệnh não do gan, cần hạn chế hấp thu protein. Người bị bệnh não do gan cần nghiêm khắc hạn chế ăn protein. Loại protein ăn, nên ăn cá, thịt nạc, trứng, sữa, đậu, có gtr dinh dưỡng cao.
III. Người bị gan xơ cứng tại sao xuất hiện nước trong bụng?
Nguyên nhân hình thành nước trong bụng khi gan bị xơ cứng, chủ yếu có mấy nhân tố sau đây:
1. Áp lực tĩnh mạch cửa tăng cao, thủy áo tĩnh mạch huyết quản và nội tạng vòm bụng tăng cao, chất dịch thu hồi ít đi mà rò rỉ đi vào vòm bụng.
2. Chứng huyết thấp albumin: Công năng hợp thành của gan hạ thấp, đường ruột ứ huyết là cho việc hấp thu tiêu hóa gặp trở ngại, lượng albumin hấp thu không đủ. Khi albumin trong huyết tương thấp hơn 25 – 30g/L thường xuất hiện nước trong bụng và chân bị phù.
3. Dịch limpho trong gan mất cân bằng: Khi đường chảy ra của tĩnh mạch gan bị trở ngại, huyết tương từ hốc gan thấm ra kẽ hở cạnh gốc, làm cho dịch limpho gan sinh thành tăng lên nhiều, số lượng lớn dịch limpho bị quá tải vận chuyển, từ bao mạc gan và ống limpho của gan tràn ra vòm bụng, hình thành nước trong bụng. Hàm lượng albumin của nước trong bụng cao, tốc độ sinh sản nhanh và không thể hấp thu.
4. Nhân tố nội phân tiết: Kích thích tối chống lợi tiểu tăng nhiều, làm hấp thu nước nặng tăng lên, nghẽn keton tăng lên, tăng thêm nước, hấp thu nặng sodium.
5. Nhân tố do thận: Khi gan xơ cứng, động lực huyết dịch cải biến rõ rệt, lượng huyết hòa tan giảm đi, áp ở bụng tăng lên, huyết quản thận thụ co, lượng huyết lưu và hệ số lọc tiểu cầu yếu đi, nước, sodium tồn tại, ít đi tiểu hoặc không đi tiểu.
IV. Điều trị nước trong bụng gan xơ cứng có mấy phương pháp?
Những phương pháp chủ yếu là:
1. Biện pháp chung chữa nước trong bụng bao gồm nghỉ ngơi, tăng cường dinh dưỡng và phương pháp duy trì, đồng thời về ăn uống cần hạn chế nước, hấp thu sodium, mỗi ngày uống chừng 1000ml ns nếu như chứng sodium thấp trong huyết rõ rệt thì cần hạn chế nước trong vòng 500ml. Hấp thu sodium chloride chỉ trong vòng 2g.
2. Lợi tiểu: Sử dụng liều lợi tiểu trên nguyên tắc là liên hợp, cách quãng, dùng thuốc thay nhau. Liều lượng không nên lớn quá, tốc độ lợi tiểu không nên quá nhanh để không dẫn đến hôn mê gan và chứng tổng hợp gan thận, gây tác dụng phụ lớn. Liều lợi tiểu có 2 loại gồm có protein và kh potassium, trên nguyên tắc dùng phối hợp cả hai loại. Hạ trọng lượng cơ thể mỗi ngày không quá 500g. Dùng thuốc liên hợp, tác dụng lợi tiểu ngày càng yếu đi, có thể ngừng thuốc mấy ngày để mong phục hồi lượng huyết dung, sau đó lại tiếp tục dùng thuốc hoặc thay thế loại thuốc lợi tiểu khác. Trong quá trình điều trị lợi tiểu, cần quan sát chặt chẽ sự cân bằng giữa nước, chất điện giải và acit base, để kịp thời bổ sung và uốn nắn.
3. Nâng cao áp thẩm thấu keo huyết tương: Định kỳ bổ sung albumin cho tĩnh mạch, nâng cao áp thẩm thấu keo huyết tương, có thể làm cho nước trong bụng lui dần.
4. Châm xuyên vòm bụng để xả nước, cô đặc nước trong bụng để vận chuyển trở lai: Xả nước trong bụng sẽ làm mất albumin và chất điện giải, gây rối loạn chất điện giải và gây hôn mê gan, nước trong bụng có thể nhanh chóng tái phát, cho nên nói chung không nên dùng phương pháp xả nước để điều trị.
Theo Healthplus.vn