I. Gan nhân tạo là gì? Nó điều trị viêm gan loại nặng có hiệu quả không?
Gan nhân tạo là một liệu pháp mới về gan phát triển trong những năm gần đây. Khi bệnh gan và công năng gan suy kiệt mà thấy những cách điều trị hiện có không đạt hiệu quả thì hệ số tử vong rất cao. Trước tình hình này, thiết kế một thiết bị để thay thế một phần gan bị suy kiệt, giúp người bệnh vượt qua thời kỳ suy kiệt cấp tính để tế bào gan tái sinh hoặc kéo dài tuổi thọ, nhằm tiến một bước tao điều kiện có lợi cho di thực gan. Cách ứng dụng kỹ thuật y học hiện đại này, thiết bị gắn ngoài cơ thể thay thế một phần công năng gan được người ta gọi là gan nhân tạo. Gan nhân tạo chia thành 2 loại gan nhân tạo hình sinh vật và gan nhân tạo không là hình sinh vật.
Gan nhân tạo hình sinh vật là đem tế bào gan được bồi dưỡng đặt vào trong thiết bị, qua một màng nữa trong suốt trao đổi đặc biệt vật chất với huyết hoặc huyết tương của bệnh nhân. Gan nhân tạo hình sinh vật lại phân thành hai loại: Một loại lắp đặt trong cơ thể, một loại lắp đặt ngoài cơ thể vì rằng người bệnh suy kiệt công năng gan trong cơ thể chất chứa nhiều chất độc, trong thời gian ngắn khó lòng làm tế bào g được bồi dưỡng chuyển hóa, ngược lại có thể ảnh hưởng tới công năng sinh vật học của tế bào gan. Vì thế hiện nay trên lâm sàng gan nhân tạo được ứng dụng đều là gan nhân tạo sinh vật theo hình tổ hợp nói trên, nhằm áp dụng tổ hợp khác nhau với bệnh nhân có bệnh tình khác nhau.
Gan nhân tạo không là hình sinh vật là nói thiết bị vật lý không hàm chứ tế bào gan hoạt tính nhằm vào giải độc, thủ đoạn chủ yếu có huyết dịch đã lọc, huyết dịch phân tiết, tưới tắm huyết lưu, thay đổi huyết tương và hệ thống hút phụ tái tuần hoàn, không có công năng hợp thành và chuyền hóa sinh vật. Cơ chế tác dụng của gan nhân tạo không là hình sinh vật sau khi thanh lọc một phần chất độc trong cơ thể người bệnh, làm nhẹ bớt chứng viêm gan, thay thế một phần công năng hợp thành chuyển hóa của gan, giúp cho tế bào gan tu sửa và tái sinh. Số lần điều trị của gan nhân tạo không là hình sinh vật theo bệnh tình của người bệnh mà định, bệnh tình nặng thì phải điều trị nhiều lần. Nếu người bệnh sau khi điều trị mà đởm hồng tố huyết thanh hạ thấp rõ rệt, chứng trạng ở đường tiêu hóa được cải thiện rõ rệt, hoặc người bệnh bị hôn mê sai điều trị tỉnh lại, chứng tỏ điều trị gan nhân tạo đạt hiệu quả hạ thấp amin huyết và sản phẩm thay thế các chất độc, duy trì được tác dụng nội áp của hộp sọ. Liệu pháp gan nhân tạo không là hình sinh vật cần nắm vững thời cơ điều trị và chừng bệnh phù hợp. Hiệu quả điều trị tốt nhất hiện nay là chữa khỏi viêm gan loại nặng từ 10% lên 80%.
II. Thế nào là viêm gan ứ nước mật?
Viêm gan ứ nước mật là chúng ta thường nói là một loại viêm gan có virut trên lâm sàng. Nguyên nhân chủ yếu của nó là nước mật bị ứ tích trong cơ thể, bài tiết không thông thoáng mà dẫ đến một loại biểu hiện lâm sàng. Căn cứ vào biểu hiện trên lâm sàng, viêm gan ứ nước mật có thể phân thành 2 loại cấp tính và mạn tính. Viêm gan ứ nước mật cấp tính là nói phát bệnh cấp tính loại trừ nước mật trong gan bị tích ứ kéo dài 3 tuần trở lên, và hoàng đản do ứ tích nước mật trong ngoài gan gây cản trở( bao gồm cả do thuốc). Viêm gan ứ nước mật mạn tính là nói trên cơ sở viêm gan mạn tính mà phát sinh biểu hiện nói trên. Viêm gan ứ nước mật về sau thường chuyển tốt, số ít hoàng đản thời gian kéo thật dài (thường là 2 – 3 tháng) có thể biến thành gan xơ cứng.
III. Đặc điểm của viêm gan ứ nước mật do virut là hoàng đản sâu, thời gian dài.
1. Biểu hiện trên lâm sàng giống viêm gan cấp tính do hoàng đản, nhưng chứng trạng hiện ra tương đối nhẹ, ăn uống giảm sút và mất sức không rõ rệt, hoàng đản ngày càng sâu hơn, kéo dài không lui, vượt quá 3 tuần hoặc dài hơn, phân đi ra mầu tro trăng, thường biểu hiện rõ gan sưng và ngứa da.
2. Kiểm tra ở phòng xét nghiệm tổng số đởm hồng tố tăng cao rõ rệt, lấy trực tiếp đởm hồng tố làm chính, men chuyền ảnh độ nhẹ hoặc độ vừa dâng cao, nồng độ chua của nước mất men chua phosphore tính kiềm (ALP hoặc AKP). Tổng cholesterol đều dâng cao, độ hoạt động của men đông máu thường lớn hơn 40%, nguồn mật trong nước tiểu và trong phân là âm tính.
3. Biểu hiện bệnh lý học: Dưới kính hiển vi có thể thấy trong ống mật lông tơ chuyện nghẽn mạch nhỏ phù hợp với những điều kiện nói trên thì chúng ta có thể coi đó là viêm gan ứ nước mật.
IV. Có mấy loại virut gây nên bệnh viêm gan ứ nước mật?
Viêm gan ứ nước mật là nói viêm gan co virut, là một loại lâm sàng đặc điểm bệnh chủ yếu là ứ nước trong gan, trước đây gọi là viêm gan loại ống mật nhỏ. Viêm gan ứ nước mật có thể phát sinh ở các loại người mh gan. Virut gan dẫn đến bệnh này thường là virut A, B, C, D, E.
V. Người bị viêm gan ứ nước mật có những biểu hiện gì?
Biểu hiện lâm sàng của viêm gan ứ nước mật chủ yếu ở mấy mặt sau đây:
1. Chứng trạng nhẹ mà hoàng đản sâu: Do tế bào gan ở loại hình này hoại tử không nặng mà ứ nước mật là chính, nên chứng trạng tương đối nhẹ, hoàng đản có thể rất sâu.
2. Nước tiểu vàng đậm mà phân loại nhạt sắc: Do hệ thống dẫn mật bị viêm, gây nên tắc trở, nước mật bài tiết xuống đường ruột ít, nên sắc phân đại tiên ra nhạt giống màu gốm, nên gọi là phân màu ốm, còn đởm hồng tố ứ trệ chảy ngược đến huyết dịch, do nước tiểu bài tiết ra, nếu sắc nước tiểu vàng đậm.
3. Gan sưng to, túi mật không đầy: Do ứ nước mật làm gan sưng to mà nước mật bài tiết không thông thoáng làm cho túi mật không chứa đầy nước mật; gan sưng to thì sức căng của bao mạc lớn nên vùng gan đau, muối ở mật kích thích làm da ngứa.
4. Kiểm tra ở phòng xét nghiệm có hiện tượng 6 cao:
– Đởm hồng tố huyết thanh dâng cao lấy kết hợp đởm hồng tố (đởm hồng tố trực tiếp) dâng cao là chính (>70%).
– Men acit lẫn tính kiềm (ALP) dâng cao.
– ɤ – ghetamine chuyền men phithalein (ɤ – GT) dâng cao.
– Cholesterol (CH) dâng cao.
– Nước mật chua (TBA) dâng cao.
– Β cầu albumin dâng cao.
5. Bệnh lý kiểm tra là ứ nước mật ở ống mật, ống mật tăng sinh rõ rệt, dưới kính hiển vi điện tử thấy ống mật li ti giãn rộng, trong ống mật li ti hình thành nghẽn mật, tế bào gan hoại tử không nổi bật.
Theo Healthplus.vn