Tiếp theo phần 1, chúng ta sẽ tìm hiểu một số đặc điểm của bệnh trĩ, mà trọng điểm ở đây là phần trực tràng hậu môn. Trực tràng hậu môn có đặc điểm gì và tác dụng sinh lý của nó.
3. Trực tràng hậu môn có những đặc điểm giải phẫu như thế nào?
Phần trực tràng hậu môn nằm ở cuối đường tiêu hóa. Nó có những đặc điểm giải phẫu sau:
Vùng lược: Vùng liên kết hậu môn và trực tràng gọi là vùng lược, cách hậu môn khoảng 1cm, về mặt giải phẫu, vùng này rất quan trọng. Phần phía tây vùng lược là trực tràng, có kết cấu mô khác với khu hậu môn ở phần dưới vùng lược.

Mạch máu phía trên vùng lược là mạch máu phía trên trĩ, tĩnh mạch của nó nối với tĩnh mạch hậu môn; mạch máu phía dưới vùng lược là mạch máu dưới phần trĩ, tĩnh mạch của nó thuộc hệ thống tĩnh mạch khoang dưới.
Thần kinh phía trên vùng lược thuộc hệ thống thần kinh thực vật, thần kinh phía dưới vùng lược thuộc hệ thống thần kinh của tủy sống.
Tuyến dịch limpha phần trên vùng lược nối với hạch limpha nội tạng; Tuyến dịch limpha phần dưới vùng lược nối với hạch limpha của bụng và đùi.
Niêm mạch phần trên vùng lược là phần đa dạng hình trụ, niêm mạc phần dưới vung lược là phần đa dạng vẩy cá.
Mạch máu: Trực tràng hậu môn có rất nhiều mạch máu, là nguồn cung cấp dinh dưỡng vô cùng phong phú, có khả năng chống lây nhiễm cao, nhưng lại là cơ sở phát sinh bệnh trĩ. Đặc biệt là: tĩnh mạch trực tràng hậu môn hình thành 2 chùm tĩnh mạch:
Chùm tĩnh mạch trĩ nội: Nằm ở phần dưới vùng lược và trong lớp dưới niêm mạc. Có 3 khu vực tương đối rõ ràng là khu phía trước bên phải, khu phía sau bên phải và khu bên trái là những khu dễ dàng phát sinh bệnh trĩ.
Chùm tĩnh mạch trĩ ngoại: Nằm ở ngoài lớp cơ trực tràng.
Tổ chức tuyến dịch limpha: Tổ chức này hết sức phức tạp, là một trong những kết cấu quan trọng để chống lây nhiễm, được chia làm 2 nhánh trên dưới, nhánh này thông với hạch limpha của lưng; Nằm dưới vùng lược là nhánh dưới, nhánh này thông với hạch limpha của bụng và đùi.
Thần kinh: Thần kinh trực tràng hậu môn phân bố tương đối đặc biệt. Trực tràng của phần trên vùng lược do thần kinh nội tạng của thần kinh giao cảm và thần kinh phó giao cảm phân bố và thuộc hệ thần kinh không cảm giác và không đau; da của cửa hậu môn và của ống hậu môn ở phần dưới vùng lược do thần kinh trong âm bộ của hệ thống thần kinh tủy phân bố và thuộc hệ thống thần kinh có cảm giác và có đau, do sự phát triển của thần kinh cảm giác dưới vùng lược, nên nếu cơ vòng bị co dãn hay bị kích thích, lập tức sẽ dẫn đến đau đớn.
Ống hậu môn, cửa hậu môn: Những kết cấu đặc biệt như ống hậu môn, van hậu môn, hang hậu môn, đầu vú hậu môn… có mỗi quan hệ mật thiết với bệnh trĩ.
Ống hậu môn: Nằm ở phía dưới trực tràng, độ dài 2-3 cm, không bị màng bụng che lấp, xung quanh có các cơ vogf trong và ngoài bao quanh, khi bình thường là các khía dọc, khi đi đại tiện sẽ chuyển sang dạng ống. Lớp ngoài của ống hậu môn, phía trên là phần da có thể di chuyển được, phía dưới là phần da có dạng vẩy cứng.
Van hậu môn: Van hậu môn do phần ucối cột trực tràng và niêm mạc đoạn trên ống hậu môn liên kết với nhau, có dạng nếp gấp hình bán nguyệt giữa phần cuối của 2 cột trực tràng.
Hang hậu môn: là những hốc nhỏ do van hậu môn và giữa những cột trực tràng tạo thành.
Đầu vú hậu môn: Đầu vú (núm) hậu môn nằm phía dưới van hậu môn hoặc chỗ giao nhau giữa ống hậu môn và cột trực tràng thường có 2 – 6 hình tam giác, các núm có màu hơi màu vàng nhạt và lồi lên.
4. Tác dụng sinh lý của trực tràng hậu môn là gì? Và có liên quan gì đến bệnh trĩ?
Chức năng sinh lý chủ yếu của trực tràng hậu môn là chứa đựng và đào thải phân, đồng thời còn có tác dụng tiết dịch nhầy để bôi trơn phân và hấp thụ nước.
Khi đi đại tiện, 2 loại động tác tự phát và khồn tự phát đồng thời xảy ra. Khi phân chuyển đến trực tràng, cơ vòng hậu môn thu nhỏ, làm cho hậu môn khép chặt lại. Đợi đến khi đầy phân ở trực tràng, vách trực tràng sẽ chịu sự kịch thích, do phản xạ làm trực tràng giãn ra, đây là động tác không tùy ý, khi phân được đẩy ra ngoià. Nhu động của kết tràng và trực tràng cũng như sự giãn lỏng của cơ vngf trong của cửa hậu môn đều thuộc loại động tác không tùy ý. Phân di chuyển xuống, cơ vòng bên ngoài cửa hậu môn thả lỏng theo ý muốn, làm cho cơ thót hậu môn co lại để thải phân ra ngoài; đồng thời cơ bụng, cơ hoành co lại, cửa hậu môn khép chặt, làm tăng áp lực bên trong vùng bụng, giúp ích cho việc đẩy phân ra ngoài, những động tác này thuộc loại động tác theo ý muốn.

Việc chức đụng cũng như thải phân của hậu môn trực tràng là một chức năng sinh lý bình thường của con người. Nhưng cũng có thể do các nguyên nhân toàn thân hoặc cục bộ làm cho vỏ đại não có thể tùy ý điều khiển. Điều này có lợi cho những người có thói quen đi đại tiện theo giờ có thể ứng biến khi giờ đại tiện bị đảo lộn do hoàn cảnh sống. Tùy ý kéo dài việc đi đại tiện trong một thời gian, đột nhiên định giờ đi đại tiện, sẽ làm tính mẫn cảm của trực tràng đối với những kích thích khi đi đại tiện bị suy giảm, do đó phân bị ứ đọng trong trực tràng và không thể tạo ra phản xạ đẩy phân ra ngoài, đây là một nguyên nhân thường gặp gây ra bệnh táo bọn. Táo bón lâu ngày sẽ làm tuần hoàn máu ở hậu môn trực tràng bị trở ngại, làm máu bị ứ đọng và đây chính là một trong những nguyên nhân gây nên bệnh trĩ phổ biến hiện nay.
Niêm mạc trực tràng có chức năng sinh lý là tiết dịch nhầy để bôi trơn phân. Nhưg khi chứng viêm trực tràng và sự hưng phấn đảo lộn sẽ làm thần kinh phó giao cảm bị hưng phấn, khiến dịch bôi trơn tiết ra nhiều và làm số lần đi đại tiện tăng lên. Nếu tiếp tục hiện tượng như vậy, sẽ kích thích hậu môn trực tràng, điều này tất nhiên sẽ gây trở ngại cho việc tuần hoàn máu ở rìa cửa hậu môn của đoạn cửa trực tràng, từ đó sẽ gây ra bệnh trĩ.
Theo Healthplus.vn