Phương pháp điều trị: Khai uất can khí, thanh lợi thấp nhiệt trừ vàng da.
Dùng bài thuốc: Lợi can phân thủy tán
Long đởm thảo: 6g
Trư linh: 10g
Xa tiền tử: 10g
Nhân trần: 10g
Sài hồ: 4g
Cúc hoa: 16g
Sắc uống ngày 1 thang.
Sau khi uống 8 thang, bệnh lành hẳn.
Trong phương thuốc dùng các vị tán thấp, bổ can, trừ nhiệt, trục tà khí, an chính khí.
– Bệnh nhân bị chứng tỳ đản mình mặt đều vàng, mồ hôi thấm ra quần áo cũng vàng, nước mũi nước miệng cũng vàng, sợ tiếng động, tiểu tiện không thông lợi. Nguyên nhân là do bệnh tỳ âm sinh vàng da.
Về phương diện sinh lý, tỳ ưa ôn ấm, bệnh vàng da phần nhiều do thấp nhiệt.
Nhiệt không phải là chỗ của tỳ, tại sao sinh vàng da?
Nên biết rằng, tuy tỳ không ghét nhiệt nhưng tỳ ghét thấp. Tỳ là thấp thổ, nếu thấp tà vượng thì làm cho dương khí của tỳ bị hư nhược, không thực hiện chức năng tiêu hóa và không chế được thủy, làm cho thủy vượng; thủy ứ đọng trong tỳ, phát ra da lông.
Phàm thủy trong tạng phủ đều được chuyển xuống bàng quang. Tại sao trong trường hợp này thủy không dẫn xuống bàng quang?
Bàng quang là hành thủy, nếu bàng quang vượng thì khí hóa làm cho thủy thông lợi. Trường hợp này tỳ bị hư nhược không đủ sức dẫn thủy xuống bàng quang cho nên sinh ứ trệ. Tại sao thường màu trong lại biến thành màu vàng?
Nguyên nhân là do hàn quá độ thì trở lại giống như màu của thổ. Hàn cực thịnh đáng lẽ hiện ra tượng của thủy là màu đen, nay hiện ra màu vàng tức là thủy trong thổ, giống như hàn thủy dưới đáy ao màu sắc đục mà biến ra màu vàng.
Tại sao bệnh nhân lại không muốn nghe tiếng động, không muốn nghe người nói?
Nguyên nhân là do tỳ hàn quá độ, cũng làm cho tâm bị hàn. Tâm hàn thì đởm hư nhược, đởm bị suy nhược thì sợ sệt không muốn nghe tiếng động hoặc người nói.
Phương pháp điều trị là làm mạnh tỳ vị, ôn bổ Mệnh môn, phân thanh lợi thủy, trừ vàng da.
Dùng bài thuốc:
Bạch truật: 80g
Nhân trần: 10g
Phục linh: 30g
Nhân sâm: 10g
Phụ tử: 8g
Bán hạ: 10g
Sắc uống ngày 1 thang.
Trong phương thuốc dùng Bạch truật, Nhân sâm bổ tỳ vị: Phục linh, Nhân trần trừ thấp lợi thủy, Phụ tử ôn bổ Mệnh môn hỏa. Chân hỏa sinh thì hỏa tà tự tiêu tan. Nguyên dương vượng thì hàn khí bị tiêu trừ, âm dương hòa hợp, giúp đỡ nhau thì bệnh vàng da tự lành.
– Bệnh nhân bị chứng thận đản, thân thể, mặt mắt đều vàng, không ăn uống được, tiểu tiện không thông, trằn trọc, phiền muộn. Nguyên nhân là bệnh vàng da do thận lạnh, không phải là bệnh vàng da thông thường.
Về phương diện sinh lý, thận vốn là nơi của thủy, mà không dung nạp được thủy tà. Thận và bàng quang có quan hệ biểu lý, thủy được thận khí hóa thì tác dụng dinh dưỡng cơ thể, thận mạnh thì bàng quang vượng. Tuy nhiên, thận vượng không phải thận thủy vượng mà là thận hỏa vượng. Thận hỏa vượng thì thủy được vận hành trôi chảy, thận hỏa suy thì thủy ứ đọng thành bệnh vàng da; cho nên, bệnh vàng da dễ trị, mà thành cổ trướng thì khó trị. Nếu trị đúng phép thì bệnh khó cũng trở thành dễ.
Bệnh thận đản không thể dùng trị theo phương pháp thông thường mà phải bổ thận hỏa, làm mạnh tỳ vị, thanh trừ hàn thấp.
Dùng bài thuốc: Tế thủy thang
Bạch truật: 60g
Sơn dược: 30g
Ý dĩ: 30g
Phục linh: 30g
Nhục quế: 10g
Nhân trần: 4g
Khiếm thực: 20g
Sắc uống ngày 1 thang.
Sau khi uống 2 thang, tiểu tiện thông lợi; uống thêm 2 thang, ăn uống tăng tiến; uống thêm 2 thang hết phiền muộn; uống 8 thang, bệnh lành hoàn toàn.
Trong phương thuốc, Bạch truật tác dụng kiện tỳ trừ thấp. Tỳ mạnh tạo điều kiện cho thận vượng. Phục linh, Sơn dược, Khiếm thực đều là thuốc bổ tỳ thận, lại được Nhục quế ôn bổ Mệnh môn giúp thêm làm ấm thận dương tiêu trừ hàn khí trong thận.
Có người nói, chứng vàng da phần nhiều đều là thấp nhiệt, chưa nghe ai nói chứng vàng da do hàn, thì hóa ra lý luận của ta là do hiếu kỳ hay sao?

Bệnh vàng da có chứng Âm hoàng là do tỳ hàn phát sinh bệnh, như vậy chứng thận hàn cũng không thể sinh chứng vàng da hay sao?
Chứng thận hàn phát vàng da lại càng có lý. Bởi vì vàng là màu của thổ, vàng quá mức biến thành màu đen, đen chưa qua mức là màu vàng. Chứng thận đản phát sinh màu vàng liền biến ra màu đen, màu vàng da mà sắc đen là chứng thuần âm không có dương, là chứng bệnh nguy nan. Trong trường hợp này, da còn có màu vàng là còn có dương khí, â, tà bức dương ra ngoài còn chút ít dương khí ở ngoài da, chưa đến nỗi tuyệt. Do đó, còn có cơ hội cứu chữa. Nếu da biến thành màu đen thì hết phương pháp chữa trị.
– Bệnh nhân bị chứng mặt, mắt đều vàng, hay run sợ, tiểu tiện không thông, người gầy ốm. Nguyên nhân là do chứng đảm khiếp thấp thịnh sinh vàng da.
Đảm thuộc Thiếu dương, là dương mộc; mộc hợp với thủy; thấp cũng là thủy, thủy vào đảm đáng lẽ hợp nhau, tại sao sinh vàng da?
Nguyên nhân là thủy vừa phải thì nuôi sống cây cỏ, thủy quá nhiều cũng làm cho cây cỏ bị hủy diệt. Thiếu dương mộc là dương khí còn yếu, không đủ sức ngăn cản thủy tràn lan, tà thủy xâm nhập vào đởm, do đó, sinh vàng da.
Phương pháp điều trị: Tả thấp tà, làm mạnh đởm khí, dinh dưỡng mộc.
Dùng bài thuốc: Lưỡng nghi thang
Bạch linh: 20g
Nhân trần: 4g
Bạch truật: 20g
Uất lý nhân: 2g
Sài hồ: 3g
Ý dĩ: 10g
Long đởm thảo: 3g
Sắc uống ngày 1 thang.
Uống 2 thang bệnh bớt dần, uống 10 thang lành bệnh.
Phương thuốc có tác dụng lợi thấp, làm mạnh tỳ vị, thanh trừ thấp nhiệt, trừ vàng da.
– Bệnh nhân tiểu tiện bí, bụng dưới đầy trướng, hai chân phù thũng, vàng da. Nguyen nhân là do bàng quang thấp nhiệt sinh vàng da.
Bàng quang là cơ quan khí hóa, có thể sinh thủy, nếu không có nhiệt khí thì bàng quang tự đóng lại. Một khi hàn thủy thịnh thì bàng quang không đủ sức tiêu thủy, làm cho thủy ứ đọng. Các bệnh vàng da phần nhiều đều do thấp nhiệt. Bệnh vàng da do bàng quang cũng là nhiệt chứng, không phải là hàn chứng. Nếu tà nhiệt bế tắc thì phải giải nhiệt mới thông được bế tắc.
Bệnh vàng da do thấp nhiệt phải trị thấp nhiệt, không dùng thuốc trừ hàn. Muốn trừ hàn phải dùng thuốc nhiệt để trị vào Mệnh môn hỏa. Dùng thuốc giải nhiệt phải dùng thuốc mát để bổ ích phế khí, vì phế khí có thông lợi mới thực hành được chức năng túc giáng xuống bàng quang, làm cho bàng quang thông lợi.

Dùng phương thuốc: Thanh phế thông thủy thang
Bạch truật: 30g
Mạch môn: 8g
Phục linh: 12g
Nhân trần: 4g
Xa tiền tử: 10g
La bặc tử: 4g
Bán hạ: 3g
Hoàng cầm: 6g
Tô tử: 6g
Tang bạch bì: 10g
Trạch tả: 4g
Sắc uống ngày 1 thang.
Uống 4 thang lành bệnh hoàn toàn.
Phương thuốc này so với các phương thuốc dưỡng phế lợi thấp đại thể tuy giống nhau những vẫn có khác nhau chút ít (đại đồng tiểu dị). Các phương thuốc dưỡng phế lợi thấp có tác dụng nâng phế khí lên, phương thuốc Thanh phế thông thủy tác dụng làm cho mát phổi, thông lợi phế khí. Hai phương thuốc đều có thuốc trừ thấp nhưng tác dụng “lợi” và “thông” khác nhau. Tác dụng là mở thủy đạo một cách vừa phải, tác dụng thông là mở rộng, ví như sông ngòi để mở thông đường nước.
Theo Healthplus.vn