Bài 8: Điều can giáng cầu phương
Sài hồ (sao giấm): 5 – 10g
Quảng uất kim: 10 – 30g
Sinh hoàng kỳ: 10 – 30g
Bạch truật: 10 – 20g
Hoàng tinh: 15g
Tử đan sâm: 10 – 30g
Xích thược (sao): 15g
Bạch thược (sao): 15g
Trần bì: 5 – 10g
Thanh bì: 5 – 10g
Tiêu sơn tra: 10g
Tiêu thần khúc: 10g
Phục linh: 10 – 30g
Nhân trần: 15g
Tần giao: 15g
Sinh cam thảo: 6g
Gia giảm:
– Bệnh nhân can tỳ sưng to, thêm: Miết giáp (chích) 10 – 30g.
– SGPT cao, thêm: Bại tương thảo 15g.
– HBSAg dương tính, thêm: Khổ sâm 15g.
– Viêm túi mật, thêm: Bồ công anh 10 – 30g.
– Hồng cầu giảm, thêm: Tử hà sa 15g.
Cách dùng: Sắc uống ngày 1 thang.
Tác dụng: Sơ can mạnh tỳ vị bổ hư nhược.
Chủ trị: Viêm gan mạn tính.
Đã điều trị 20 ca viêm gan trên 1 năm, lành bệnh 5 ca, giảm nhẹ 9 ca, không hiệu quả 6 ca. Trong đó có 4 ca HBSAg dương tính chuyển âm tính 2 ca; trong 2 năm tái phát 2 ca.
Bài 9: Phục can thang
Kim tiền thảo: 12g
Trạch tả: 12g
Thảo quyết minh: 15g
Đan bì: 10g
Hoàng tinh: 15g
Thảo hà xa: 15g
Sinh hoàng kỳ: 20g
Hà thủ ô: 12g
Đào nhân: 10g
Xa tiền tử: 12g
Ý dĩ: 12g
Sơn tra: 12g
Đan sâm: 15g
Bạch hoa xà thiệt thảo: 15g
Tang chi: 30g
Sinh địa: 15g
Đương quy: 12g
Đại hoàng (đốt cháy): 10g
Gia giảm:
– Bệnh nhân kinh nguyệt kéo dài hoặc ra nhiều, bỏ Đào nhân.
– Đại tiện lỏng bỏ Sinh địa hoặc dùng Sinh địa đốt cháy.
– Nếu vàng da, bỏ Kim tiền thảo, thêm: Nhân trần.
Cách dùng: Sắc uống ngày 1 thang.
Tác dụng: Thanh nhiệt, bổ hư trừ tà, điều hòa khí huyết.
Chủ trị: Viêm gan mạn tính.
Đã điều trị 78 ca, có hiệu quả 41 ca (SGBT, TTT khôi phục bình thường hoặc hạ xuống 50%) chiếm 52,6%, giảm nhẹ (SGBT, TTT hạ xuống 25%) 27 ca chiếm 34,6%, không hiệu quả 10 ca chiếm 12,8%. Tổng hiệu suất trị liệu đạt 87,2%.
Ý nghĩa bài thuốc: Qua thực tế lâm sàng đối với bệnh viêm gan mạn tính, nguyên nhân sinh bệnh là suy nhược cơ thể, cơ năng tạng phủ rối loạn. Do đó, phương pháp điều trị là điều hòa chức năng các tạng phủ rất quan trọng. Theo biện chứng Đông y, bệnh viêm gan mạn tính là do tà thấp nhiệt không được giải trừ, uất trệ ở tỳ vị, xâm phạm qua can đởm làm cho chức năng tạng phủ không điều hòa, kinh lạc bế tắc. Thấp tà là âm tà, dễ làm tổn thương dương khí; nhiệt là dương tà thường làm hao tổn âm huyết. Về phương diện sinh lý, can làm nhiệm vụ tàng huyết, khi lâm bệnh, tà nhiệt và huyết ứ tương bác làm cho âm dương, khí huyết tạng phủ mất điều hòa, phát sinh nhiều bệnh tật. Do đó, phương pháp điều trị là điều hòa tạng phủ, khí huyết, phục hồi chính khí, giúp cơ thể quét sạch bệnh tà. Trong phương thuốc sử dụng các vị thuốc bổ mà không lựu trệ tà khí, bổ tỳ vị mà không nê trệ, bổ thận mà không làm động hỏa, bổ huyết mà không gây ứ trệ, bổ âm mà không làm bế tắc sự vận hành, công bổ kiêm thi đạt mục đích phục hồi chính khí, giải trừ bệnh tật.
Bài 10: Bổ tâm đơn
Bá tử nhân: 12g
Thiên môn: 10g
Đương quy: 12g
Sinh địa: 15g
Huyền sâm: 10g
Viễn chí: 8g
Cát cánh: 10g
Táo nhân: 12g
Mạch môn: 12g
Ngũ vị tử: 10g
Đảng sâm: 20g
Đan sâm: 16g
Phục linh: 12g
Gia giảm:
– Bệnh nhân tỳ vị ư nhược bỏ Huyền sâm, Thiên môn, thêm: Bạch truật, Chích cam thảo.
– Can tỳ sưng to, thêm: Miết giáp, Hồng hoa, Kê huyết đằng.
Cách dùng: Sắc uống ngày 1 thang.
Tác dụng: Dưỡng tâm an thần, bổ âm, thư giãn can khí.
Chủ trị: Viêm gan mạn tính.
Đã điều trị 34 ca, lành bệnh 29 ca (các triệu chứng chủ yếu lành, can tỳ khôi phục bình thường, hết sưng, vùng gan đè không đau hoặc đau rất ít, chức ăng gan khôi phục bình thường), giảm nhiều 3 ca (các triệu chứng chủ yếu lành hoặc giảm nhiều, chức năng can tỳ cơ bản khôi phục bình thường), không hiệu quả 2 ca (các triệu chứng chủ yếu giảm không đáng kể hoặc không được cải thiện). Tổng hiệu suất trị liệu đạt 94,1%.
Ý nghĩa bài thuốc: Bệnh viêm gan mạn tính kèm theo mất ngủ thường gặp ở những người ít tuổi, khỏe mạnh. Nếu bị bệnh mất ngủ thì chức năng gan khó khôi phục. Về phương diện sinh lý, can làm nhiệm vụ tàng huyết, chủ sơ tiết. Tâm làm nhiệm vụ tàng thần, chủ huyết mạch. Tâm và can có mỗi quan hệ thu tàng và sơ tiết rất chặt chẽ, chức năng giữ huyết và thông lợi có mỗi quan hệ mật thiết. Theo quan niệm Đông y, Tâm chủ thần chí, can chủ sơ tiết. Hoạt động thần chí của con người chủ yếu liên quan đến tâm và can; hai cơ quan này có nhiệm vụ điều tiết. Chức năng điều tiết của can và nhiệm vụ chủ huyết của tâm đều nhờ vào sự nuôi dưỡng của huyết. Trường hợp can âm hư nhược, can huyết không đầy đủ, tâm huyết hao tổn, tâm âm hư nhược thì can âm cũng bị liên lụy. Do đó, phương pháp điều trị là bồi bổ điều hòa 2 tạng này. Trong phương thuốc, dùng Sịnh địa, Huyền sâm tư dưỡng âm huyết, sinh tân dịch; Đan sâm, Đương quy tác dụng dưỡng huyết, thư giãn can; Thiên môn, Mạch môn có tác dụng bổ ích can tâm; Táo nhân, Ngũ vị tử tác dụng thu liễm tâm khí hao tán, an thần định chí; Đảng sâm, Phục linh tác dụng bổ tâm khí; Viễn chí, Bá tử nhân tác dụng dưỡng tâm an thần; Cát cánh tác dụng dẫn các vị thuốc đi vào phần trên cơ thể. Toàn phương thuốc có tác dụng bổ tâm, xúc tiến chức năng gan khôi phục làm cho can tâm điều hòa, giải trừ bệnh tật.
Theo Healthplus.vn