I. Viêm gan A truyền nhiễm như thế nào?
Lây nhiễm viêm gan A chủ yếu là do ăn uống thức ăn bị ô nhiễm bởi phân của người bệnh gan A, như là ăn rau và quả tưới bằng nước phân của người bị bệnh gan A, hoặc ăn loại thực vật vỏ cứng sống hoặc chưa đun chưa chín kỹ như ăn sò huyết, ăn ngao, ăn hến đều có bị lây nhiễm viêm gan A. Vì rằng virut bệnh gan A sau khi lây nhiễm qua đường miệng, qua đường ruột vào gan, cuối cùng theo phân bài tiết ra ngoài, cho nên ăn nhầm thức ăn bị ô nhiễm bởi phân người mắc bệnh gan A, sẽ rất có thể lây nhiễm virut gan A. Ngoài ra, tiếp xúc với thức ăn ô nhiễm virut gan A làm cho ngón tay dính virut, trước khi ăn không rửa tay cũng có thể lây nhiễm A.
II. Những loại người nào dễ lây nhiễm virut viêm gan A?
Trẻ em và vị thành niên dễ mắc bệnh gan A, trẻ em dưới 6 tháng do tiếp cận kháng thể gan A từ mẹ nên ít lây nhiễm virut gan A. Nhưng với trẻ em từ 6 tháng tuổi trở về sau, do kháng thể gan A trong các huyết dịch của chúng bị mất dần trở thành dễ mắc bệnh, rất dễ lây nhiễm virut gan A. Những người từ 30 tuổi trở lên sống khỏe mạnh, kiểm tra trong cơ thể họ thấy kháng thể gan A đạt gần 90%, tức là nói người từ 30 tuổi trở lên hầu như đều có sức miễn dịch nên không dễ mắc viêm gan A.
III. Viêm gan A có chuyển thành viêm gan mạn tính không?
Người bị nhiễm virut viêm gan A phần lớn đều dẫn tới viêm gan cấp tính, có người biểu hiện nặng, có người biểu hiện nhẹ, thông thường không chuyển thành viêm gan mạn tính. Có một số người sau khi lây nhiễm viêm gan A không có biểu hiện gì, thậm chí công năng gan vẫn bình thường, chỉ khi trong thời kì hồi phục là sinh sản ra kháng thể gan A; một số người khác biểu hiện rất nhẹ, không xuất hiện hoàng đản, chỉ khi kiểm tra công năng gan mới phát hiện men chuyền ammoniac dâng cao; còn một số người khác biểu hiện gan A điển hình. Với số đông mà nói, thông thường sau khi lây nhiễm virut gan A 3 tháng đều có thể hồi phục sức khỏe, chỉ có số ít người phát triển thành viêm gan loại này, biểu rất nặng.
IV. Làm thế nào phán đoán được bệnh tình viêm gan A nặng hay nhẹ?
Có thể phán đoán từ hai mặt:
(1) Phán đoán từ biểu hiện lâm sàng: Nếu bệnh nhân mất sức toàn thân, ăn uống giảm sút, bụng căng đầy ngày càng nặng hơn, thậm chí có thể phù nước, nhưng não do gan (biểu hiện ban đầu là buồn ngủ, thay đổi tính cách, buồn bực, biểu hiện cuối kỳ là hôn mê, co quắp). Kèm theo đường tiêu hóa xuất huyết, những niểu hiện này có thể chứng tỏ bệnh tình của bệnh nhận nặng hơn.
(2) Phán đoán từ kết quả kiểm tra của phòng xét nghiệm: Nếu chỉ số kiểm tra cho thấy hoàng đản không ngừng nâng cao, mà men chuyền ammoniac không hạ xuống và chỉ tiêu độ hoạt động nguyên men đông máu (PTA) vẫn xuống thấp, thậm chí thấp hơn 40%, siêu âm B cho thấy gan teo nhỏ lại thì đều đồng thời chứng tỏ bệnh tình nặng hơn. Số đông bệnh nhân sai khi mắc viêm gan A về sau chuyển biến tốt, chỉ có số ít người phát triển thành viêm gan loại nặng. Cho nên với những bệnh nhân biểu hiện nặng hơn, nên cố gắng qua hai điểm nói trên phán đoán bệnh tình nặng nhẹ, sớm đến bệnh viện khám bệnh, từ chuẩn đoán chính xác của thầy thuốc, hướng dẫn điều trị, không để phát triển thành viêm gan loại nặng.
V. Những biểu hiện thường thấy của viêm gan A.
Số đông người sau khi mắc bệnh gan A biểu hiện đầu tiên là phát sốt (thậm chí có thể sốt cao), kèm theo toàn thân mệt mỏi , đau đầu, đau cơ, cho nên khi mới mắc bệnh thường chẩn đoán nhầm là mạo cảm. Sau đó, nhiệt độ dần dần hạ thấp, nhưng ăn uống kém, buồn nôn, nôn mửa, bụng đầy, đi tả, mấy ngày sau (thường là 1 tuần) xuất hiện hoàng đản biểu hiện là nước tiểu vàng, da, mắt vàng, da ngứa. Thời gian phát bệnh từ 2 – 4 tháng.
Một số người có hiểu hiện điển hình nói trên, một số người khác không có biểu hiện gì, chỉ là trong thời kỳ hồi phục sức khỏe sản sinh ra kháng thể gan A, có một số ít người xuất hiện viêm gan loại nặng.
VI. Dự phòng viêm gan A như thế nào?
(1) Đề phòng bệnh từ miệng vào, phải thực hiện rửa tay trước khi ăn, sau khi đại tiện, không uống nước lã, không ăn hải sản chưa nấu chín, hoa quả ăn sống phải rửa sạch rồi mới ăn. Tăng cường quản lý việc ăn uống, nguồn nước, nguồn phân; tiểu độc dụng cụ ăn uống dùng chung, tốt nhất chia phần ăn riêng; thớt thái thức ăn sống, chín, dao kéo và đồ chứa thức ăn cần phải tách riêng, đề phòng lây nhiễm.
(2) Tránh tiếp xúc với người bị bệnh gan A: Phải cách ly người bị bệnh gan A ở thời kỳ lây nhiễm mà không có chứng trạng, chờ sau thời kỳ lây nhiễm mới trở về nhà điều dưỡng.
(3) Bảo vệ những người dễ bị lây nhiễm: Người dễ bị nhiễm chủ yếu là trẻ em và thanh niên, với những người này có thể tiên vacxin giải độc gan A và vacxin diệt virut sống. Ở gia đình khi có người mắc bệnh gan A, với những người tiếp xúc gần gũi, nhất là với trẻ sơ sinh, sau khi tiếp xúc một tuần thì tiêm bạch cầu loại C vào cơ bắp, liều lượng là 0,02 – 0,12 ml/kg. Hiện nay, trên thị trường tiêm chủng bạch cầu loại C, với trẻ em dưới tuổi đi học là 1ml, trẻ em ở tuổi đi học là 2ml, người lớn là 3ml, có thể dự phòng hoặc giảm bớt bệnh này phát sinh.
VII. Người tiếp xúc chặt chẽ với người mắc bệnh viêm gan A thì quan sát và dự phòng như thế nào?
Trong những người tiếp xúc chặt chẽ với người mắc bệnh viêm gan A nếu bị sốt, toàn thân mất sức, đau đầu, cơ bắp đau nhức, kém ăn, buồn lợm, nôn mửa, đầy bụng, đi tả. Sau đó xuất hiện hoàng đản, có thể hút máu kiểm tra công năng gan và kháng thể gen A, để giúp cho phán đoán có thể lây nhiễm gan A không. Nếu người tiếp xúc chặt chẽ không có biểu hiện nói trên nhưng tâm lý cảm thấy không yên thì có thể hút máu kiểm tra công năng gan xem có biến đổi khác thường không, sau đó tiến hành xử lý thích đáng. Biện pháp dự phòng chủ yếu là tiêm bắp cho người tiếp xúc chặt chẽ bạch cầu miễn dịch.
(Còn tiếp)
Theo Healthplus.vn