Nấc là do co bóp đột ngột các cơ thở vào gây ra, kết thúc bằng đóng thanh môn gấp, đưa đến tiếng “ nấc” đặc trưng. Mặc dầu thường là sự quấy rầy khó chịu nhẹ và có hạn định, nấc có thể dai dẳng và là dấu hiệu của một bệnh cơ sở. Nấc mạn tính có vẻ không gây hậu quả nghiêm trọng. Các báo cáo rằng nấc dẫn tới suy kiệt, sụt câm hoặc chết là không có căn cứ xác minh. Song. ở các bệnh nhân đang được duy trì cuộc sống bằng thông khí cơ học, nấc có thể nẩy cò toàn bộ một chu kỳ thở và đưa tơi trạng thái nhiễm kiềm hô hấp.
Hình như có một “ trung tâm nấc” ở thân não. Có thể được khởi phát do các dây thần kinh đi vào từ hệ thần kinh trung ương, dây phế vị và dây thần kinh hoành. Trung tâm này phối hợp hoạt động đi vào thông qua nhiều dây thần kinh tới trung tâm hô hấp và tới cơ hoành ( dây thần kinh hoành), Thanh môn( dây phế vị), các cơ bậc thanh( đám rối cổ) và các cơ liên sườn ( các dây thần kinh ngực). Các nguyên nhân nấc nhẹ, có hạn định bao gồm căng chướng dạ dầy (các đồ uống có carbonat, nuốt hơi, ăn quá nhiều), các thay đổi nhiệt độ đột ngột(các chất lỏng nóng/lạnh, tắm vòi sen nước lạnh), uống rượu và các trạng thái cảm xúc (xúc động, stress, cười).Hơn 100 nguyên nhân của nấc tái phát luôn hoặc dai dẳng đã được báo cáo. Những nguyên nhân này có thể được tập hợp thành các loại sau.
(1) Hệ thần kinh trung ương: ung thư, nhiễm khuẩn, tai biến mạch não, chấn thương.
(2) Chuyển hóa: tăng ure huyết, giảm CO2 huyết( tăng khong khí), mất cân bằng điện giải
(3) Kích thích dây thần kinh phế vị hoặc hoành:
a/ Đầu, cổ: dị vật trong tai, bướu cổ, ung thư.
b/ Ngực: viêm phổi, viêm mủ màng phổi, ung thư, nhồi máu cơ tim, viêm màng ngoài tim, phình mạch, tắc thực quản, viêm thực quản trào ngược.
c/Bụng: áp xe dưới cơ hoành, gan to, viêm gan, viêm túi mật, căng giãn dạ dầy, ung thư dạ dầy, viêm tụy hoặc ung thư tụy.
(4) Ngoại khoa: gây mê toàn thân, sau mổ.
(5) Căn nguyên tâm lý và tự phát.
I. Phát hiện lâm sàng.
Đánh giá bệnh nhân bị nấc dai dẳng bao gồm hỏi bệnh sử và thăm khám lâm sàng (bao gồm cả khám thần kinh), công thức máu toàn bộ, các điện giải, các test sinh hóa chức năng gan và chụp X-quang lồng ngực. Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dầy-ruột.
II. Điều trị.
Một số phương thuốc đơn giản có thể giúp ích cho bệnh nhân bị nấc nhẹ, cấp tính: (1) Kích thích mũi họng bằng kéo lưỡi, nâng lưỡi gà bằng thìa, dung ống thông kích thích vùng mũi-họng, và ăn một thìa nhỏ đường kính khô, hoặc một mẩu chanh ngâm chong bia đắng làm với cỏ cây Angostura; (2) ngắt chu kỳ thở bằng, nín thở, thủ thuật Valsalva, hắt hơi, há miệng hít hơi vào nhanh, nhiều lần (kích thích sợ hãi) hoặc thở lại vào trong một cái túi; (3) Kích thích dây thần kinh phế vị bằng ấn nhẹ vào phía trên ổ mắt, xoa vùng động mạch cảnh; (4) Kích thích thở dương tính liên tục trong khi không khí cơ học; (5) Làm giảm căng giãn dạ dầy bằng ợ hơi hoặc đặt ống mũi – dạ dầy.
Nếu bệnh nhân bị nấc dai dẳng, điều trị phải hướng về việc làm giảm nguyên nhân đưa đến nấc.
Một số thuốc đã được quảng cáo là có tác dụng chữa nấc, nhưng chưa có thuốc nào được thử nghiệm kiểm định. Thường dung nhất là Chlorpromazin 25-50 mg uống hoặc tiêm bắp. Một số tác nhân khác đã được thông báo là hiệu nghiệm trong một số trường hợp bao gồm các thuốc chống co giật (phenytoin, carbamazepine), metoclopramide và đôi khi gây mê toàn thân.
Theo Healthplus.vn