Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán
– Các triệu chứng khó tiêu và sụt cân ở các bệnh nhân trên 40 tuổi.
– Thiếu máu do thiếu sắt. có máu kín đáo trong phân.
– Bệnh được phát hiện do loạt chụp dạ dầy ruột hoặc nội soi.
Các nhận định chung
Mặc dù ung thư biểu mô tuyến dạ dầy là ung thư thương gặp nhất trên toàn cầu ( khác với ung thư da), tỷ lệ mắc bệnh ở Hoa Kỳ đã giảm đi hai phần ba trong 30 năm qua xuống hằng năm còn 20.000 ca. Ung thư dạ dầy hiếm thấy gặp dưới tuổi 40, tuổi chuẩn đoán mắc bệnh cao hơn ở những người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, người Mỹ gốc châu Phi, và gốc châu Á. Một số miền như Chile, Columbia, Trung Mỹ và Nhật Bản có các tỷ lệ cao đến 80/100.000 dân số. tuy phần lớn các ung thu dạ dầy phát sinh ở hang vị, tỷ lệ mắc chứng các u phía gần của tâm vị và đáy dạ dầy đăng tăng lên.
Viêm dạ dầy H.pylori mạn tính là nhân tố nguy cơ cao đối với ung thư biểu mô dạ dầy ở phía xa (chứ không ở phía gần) làm tăng nguy cơ tương đối gấp 3,8 lần. Người ta dự tính rằng 35-89% các ca ung thư biểu mo dạ dầy có thể quy cho H.pylori. đáng lưu ý nhất rằng dưới 1% các cá nhan bị nhiễm khuẩn mạn tính sẽ phát triển ung thư biểu mô. Các nhân tố nguy cơ khác của ung thư dạ dầy bao gồm viêm teo dạ dầy mạn tính với dị sản ruột (thường thứ phát d o nhiễm khuẩn H.pylori mạn tính), thiếu máu ác tính và một tiền sử cắt bỏ dạ dầy một phần trên 15 năm trước đó.
Ung thư dạ dầy có thể xẩy ra với các loại hình khác nhau: (1) các khối polip hoặc sùi lên (2) các khối loét ra (3) lan tỏa rộng (đường tạo hình) trong đó là phát triển qua lớp niêm mạc, dẫn đến một dạ dầy mất trương lực với các nếp gấp dày lên (tiên lượng xấu) và (4) phát triển rộng nông hoặc ung thư dạ dầy “sớm”-giới hạn ở niêm mạc hoặc vùng dưới niêm mạc (có hoặc không có di căn hạch lympho) và có một tiện lượng tốt.
Phát hiện lâm sàng
A. Các triệu chứng và dấu hiệu ung thư biểu mô thường không có triệu chứng cho đến khi bệnh đã tiến triển. Các triệu chứng không đặc trưng và được xác định một phần do vị trí khối u. Khó tiêu, đau thượng vị không rõ ràng chán ăn, sụt cân là các triệu chứng bộc lộ ở phần lớn các bệnh nhân. Các bệnh nhân có thể làm giảm triệu chứng ban đầu bằng các thuốc không có kê đơn, làm trì hoãn việc chuẩn đoán chậm hơn nữa. Các tổn thương loét có thể dẫn tới xuất huyết dạ dầy-ruột cấp tính với nôn máu hoặc đại tiện máu đen. Tắc môn vị dẫn tới nôn sau bữa ăn. Tắc thực quản dưới gây ra khó nuốt tiến triển. Thăm khám thực thể hiếm khi giúp ích. Sờ nắn thấy một khối ở vùng dạ dầy gặp trong dưới 1/5 số bệnh nhân. Các dấu hiệu phát triển di căn bao gồm hạc lympho trên xương đòn trái (hạch Virchow), một hạch nhỏ vùng rốn (hạch nhỏ xơ Mary Joseph), một thềm nhô trực tràng cứng (thềm nho blumer) và các di căn vào buồng trứng ( u Krukenberg). Có thể phát hiện xét nghiệm phân guaic dương tính (nhuộm acid carbonic ester guaicol) .
B. Các phát hiện lu bô thiếu máu thiếu sắt do mất máu mạn tính hoặc thiếu máu của bệnh mạn tính thường xẩy ra. Các teesst chức năng gan có thể bất thường nếu phát triển di căn tới gan. Các phương pháp đánh dấu khối u không có giá trị.
C. Nội soi nội soi phần trên phải được thực hiện ở mọi bệnh nhân tuổi trên 40 với sự bắt đầu mới mẻ của các triệu chứng thượng vị dai dẳng hoặc không đáp ứng với một lần điều trị thử bằng các thuốc kháng acid. Nội soi với các mẫu chải tế bào học và sinh thiết tổn thương nghi ngờ là rất trong việc phát hiện ung thư biểu mô dạ dầy. Có thể khó lấy được các sinh mẫu thiết đầy đủ trong các tổn thương “đường tạo hình”. Do tỷ lệ mắc bệnh ung thư biểu mô dạ dầy cao ở Nhật Bản, nội soi đường dạ dầy-ruột trên để kiểm tra được thực hiện nhằm phát hiện được sớm với tỷ lệ sống thêm 5 năm là gần 90%. Các chương trình sàng lọc không được khuyến nghị ở Hoa Kỳ
D. Ghi hình ảnh loạt chup đường dạ dầy-ruột trên với barit là một khả năng lựa chọn chấp nhận được khi không có nội soi nhưng không thể phát hiện các tổn thương nhỏ nông và không phân biệt được một cách đáng tin cậy các ổ loét ác tính. Tất cả những bất thường phát hiện được trên X quang đòi hỏi sự xác minh bằng nội soi.
Một khi chuẩn đoán là ung thư dạ dầy, việc đánh giá trước khi mổ được chỉ định đẻ mô tả tầm cỡ tại chỗ của u nguyên phát cũng như các di căn xa, và sự xâm nhập trực tiếp vào các cấu trúc kế cận. Hình ảnh siêu am nội soi hiện nay có săn ở nhiều trung tâm và có ưu thê hơn chụp cắt lớp vi tinh trong việc xác định chiều sau thâm nhập của u và các di căn hạch.
Chuẩn đoán phân biệt
Các ung thư biểu mô tuyến dạ dầy có thàng loét được phân biệt với các ổ loét dạ dầy lành tính bằng sinh thiết. Xấp xỉ 3% các ổ loét dạ dầy ban đầu cảm thấy là lành. Về sau hóa ra ác tính. Để loại trừ u ác tính, phải theo dõi các ổ loét dạ dầy bằng nội soi cho đến khi khỏi hẳn, và phải cắt bỏ các ổ loét dạ dầy dai dẳng khó chữa. ung thư biểu mô thâm nhập với các nếp gấp dầy lên của dạ dầy phải được phân biệt với u lympho và các bệnh dạ dầy phì đại như bệnh Menetrier. Việc lấy các mẫu sinh thiết đầy đủ có thể khó khăn và một sinh thiết mở lấy đủ chiều dầy ổ loét đôi khi là cần thiết.
Điều trị
Phẫu thuật cắt bỏ là liệu pháp duy nhất hiện có với khả năng chữa khỏi bệnh. Các bệnh nhân bị bệnh khu trú không có di căn xa hoặc tổn thương các cơ quan kế cận trải qua cắt bộ toàn bộ dạ dầy nhằm mục đích chữa bệnh có tỷ lệ sống thêm 5 năm là 20-30%. Đáng tiếc là , trên cơ sở lượng giá trước và trong khi mổ, dưới 30% số bệnh nhân có bệnh lại không thể cắt bỏ thật sự để “ chữa bệnh”. Đối với các u xa, việc cắt bỏ chữa bệnh thương bao gồm việc cắt bỏ dạ dầy gần toàn phần và cắt bỏ các hạch lympho khu vực. đối với các u gần và đường tạo hình thường cần cắt bỏ dạ dầy toàn phần và cắt bỏ lách. Hiện nay chưa xác lập được vai trò của hóa liệu pháp bổ trợ hoặc liệu pháp chiếu xạ ngoài các thử nghiệm lâm sàng.
Đa số các bệnh nhân (70%) với ung thu dạ dầy đến cơ sở y tế với bệnh đã tiến triển có tiên lượng xấu. đối với các bệnh nhân này, việc điều trị hướng vào làm giảm nhẹ. Đối với các bệnh nhân có hy vọng sống vài tháng, việc cắt bỏ làm giảm nhẹ được chỉ định, khi có thể, để dự phòng tắc hoặc xuất huyết. Việc cắt bỏ làm giảm nhẹ được chỉ định, khi có thể, để dự phòng, tắc hoặc xuất huyết . việc cắt bỏ làm giảm nhẹ liên quan với khả năng sống dài hơn và đỡ đau đớn hơn cho bệnh nhân. Nếu về mặt kỹ thuật, việc cắt bỏ không thể thực hiện do tổn thương rộng lớn ngoài dạ dầy, phải thực hiện nối dạ dầy-hỗng tràng. Với các bệnh nhân khác, biện pháp phải hướng vào làm giảm đau và các triệu chứng. Xuất huyết khối u có thể chế ngự bằng chiếu xạ, liệu pháp laze nội soi hoặc chụp mạch làm nghẽn mạch. Hóa liệu pháp đơn tác nhân với fluorouracil, mitomycin hoặc doxorubicin hoặc phối hợp các chế độ thuốc (etoposide, doxorubicin và cisplatin) có thể làm giảm nhẹ đôi chút cho 20-30% số bệnh nhân nhưng có vẻ không kéo dài thêm cuộc sống.
Tiên lượng
Tỷ lệ sống thêm 5 năm chung của ung thư biểu mô dạ dầy chỉ là 12%. Sống lâu dài hơn tùy thuộc vào giai đoạn của u, vị trí, các đặc điểm mô học. các u ở giai đoạn I và II (có thể cắt bỏ để chữa) cho phép sống sót trong 30-70%. Các u loại lan tỏa và ung thư biểu mô hình nhẫn có tiên lượng xấu hơn các tổn thương loại ruột. các u dạ dầy phía gần (đáy dạ dầy, tâm vị) có tiên lượng xấu hơn nhiều so với các tổn thương phía xa, ngay cả với bệnh bề ngoài có vẻ là khu trú, các u ở khu vực này chỉ có được tỷ lệ sống thêm 5 năm là 10-15%.
Theo Healthplus.vn