Thuật ngực viêm dạ dầy là một thuật ngữ bao hàm rộng, mơ hồ và có sự mập mờ về ngữ nghĩa. Các nhà nội soi dùng từ này để chỉ một số đặc điểm rõ ràng của niêm mạc như là đỏ, xuất huyết dưới biểu mô, và chỗ xói mòn, đối với nhà nghiên cứu bệnh học, từ này chỉ viêm nhiễm của mô. Để làm sáng sủa hơn trong thảo luận lâm sàng này. Viêm dạ dầy có thể được xếp thành ba loại: (1) viêm dạ dầy ăn mòn hoặc xuất huyết (2) viêm dạ dầy không ăn mòn không đặc trưng (viêm dạ dầy mạn tính ) và (3) các loại đặc trưng như là viêm dạ dầy do nhiễm khuẩn, viêm dạ dầy u hạt, viêm dạ dầy ưa eosin và bệnh menettrier (bệnh dạ dầy phì đại).
Các yếu tố thiết yêu trong chẩn đoán
• Thường gặp nhất ở những bệnh nhân ốm yếu nặng, những người nghiện rượu hoặc các bệnh nhân uống các thuốc chống viêm không steroid.
• Thường không có triệu chứng, có thể gây đau thượng vị, buồn nôn và nôn.
• Có thể gây nôn ra máu, chảy máu thường không nhiều.

Các nhận định chung
Các nguyên nhân thường gặp nhất của viêm dạ dầy ăn mòn là các thuốc (nhất là các thuốc chống viêm không streroid), rượu, stress do tình trạng đau yếu trầm trọng về nội khoa hoặc ngoại khoa (viêm dạ dầy do stress) và tăng áp lực tĩnh mạch cửa (bệnh dạ dầy do tuần hoàn cửa ). Các nguyên nhân ít gặp bao gồm ăn uống phải chất ăn mòn hoặc chiếu xạ. viêm dạ dầy ăn mòn hoặc xuất huyết được chẩn đoán điển hình bằng nội soi, thường được thực hiện do có đau thượng vị hoặc xuất huyết đường dạ dầy ruột trên. Các phát hiện nội soi bao gồm xuất huyết dươi biểu mô, đốm xuất huyết và chỗ xói mòn. Các tổn thường nông có thể khác nhau về độ lớn và số lượng, và có thể taepj trung hoặc lan tỏa. Thường viêm nhiễm không đáng kể trong xét nghiệm mô học.
Phát hiện lâm sàng
A. Các triệu chứng và dấu hiệu viêm dạ dầy ăn mòn thường không triệu chứng. khi chúng xuấ hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ơ nội soi. Biểu hiện lâm sàng hay gặp nhất cua viêm dạ dầy ăn mòn là xuất huyết đường dạ dầy-ruột trên. Nó có thể không hay gặp rối loạn huyết động trong xuất huyết dạ dầy tá tràng.
Thăm khám thực thể có thể phát hiện đau khi sờ chạm vùng thượng vị, nhưng cũng có khi bụng lại bt. Khám trực tràng cùng với test tìm máu kín đáo trong phân có thể xác nhận có mất màu đường dạ dầy-ruột.
B. Các phát hiện la bô có thể phản ánh quá trình bệnh cơ bản nhưng lại không cụ thể. Hematocrit thấp nếu xuất huyết nhiều.
C. Các khám nghiệm đặc biệt nội soi phần trên là phương pháp chẩn đoán nhậy bén. Tuy rằng xuất huyết do viêm dạ dầy thường là không đáng kể, trên cơ sở lâm sàng , không thể phân biệt được nó với các tổn thường nặng hơn như các loét tiêu hóa hoặc giãn tĩnh mạch thực quản. do đó, thường thực hiện nội soi trong vòng 24h cho các bệnh nhân xuất huyết đường dạ dầy –ruột trên để xác định ngưồn gốc xuất huyết. một loạt phim chụp X quang đường dạ dầy ruột trên thì đỡ tốn kém hơn nhưng không nhạy trong chẩn đoán viêm dạ dầy.
Chẩn đoán đặc biệt
Đau thượng vị có thể do loét tiêu hóa , trào ngược dạ dầy-thực quản, ung thư dạ dầy, bệnh đường dẫn mật, ngộ độc thức ăn, viêm dạ dầy-ruột do virus, và chứng khó tiêu không do loét. Với cơn đau nặng, người ta cân nhắc về một ổ loét thủng hoặc xâm nhập, bệnh của tụy, vỡ thực quản vỡ phình động mạch, cơn đau niệu quản và nhồi máu cơ tim. Các nguyên nhân gây xuất huyết đường dạ dầy-ruột trên bao gồm bệnh loét tiêu hóa, giãn tĩnh mạch thực quản, vết rách Mallory-weiss và các dạng động-tĩnh mạch.

Các nguyên nhân đặc biệt và điều trị
A. Viêm dạ dầy do thuốc chống viêm không phải steroid. Tuy nửa số bệnh nhân được nhân thuốc kháng viêm không corticoid trong thời gian dài có viêm dạ dầy ở nội soi, các triệu chứng khó tiêu chỉ phát triển ở dưới một phần tư số bệnh nhân này. Hơn nữa, trong số các bệnh nhân bị khó tiêu, có đến một nửa không có các bất thường đáng kể ở viêm mạc dạ dầy. căn cứ vào tần số các triệu chứng khó tiêu ở các bệnh nhân uống thuốc kháng viêm không steroid dày ngày, thì không thể thực hiện cungz như không đáng mong muốn điều tra tất cả bệnh nhân có các triệu chứng khó tiêu. Các triệu chứng có thể giảm đi do ngừng tác nhân, giảm xuống liều hữu hiệu thâp nhất, cho uống cùng với bữa ăn, hoặc sử dụng tác nhân thay thế như là acetaminophen. Các bệnh nhân có triệu chứng dai dẳng bất chấp các biện pháp bảo tồn hoặc các bệnh nhân có nguy cơ cao loét do thuốc kháng viêm không steroid có thể điều trị triệu chứng bằng sucralfate 1 g bốn lần mỗi ngày hoặc các thuốc đối kháng H2 (cimetidine 400 mg hai lần mỗi ngày ra nitidin 150 mg hai lần mỗi ngày, famotidine 20 mg hai lần mỗi ngày ). Xuất huyết đường dạ dầy –ruột trên trong viêm dạ dầy do thuốc kháng viêm không steroid thường không nghiêm trọng. nếu ch nặng, cần phải chú ý cho các tiểu cầu vì chức năng tiểu cầu của bệnh nhân bị suy kém khi dùng aspirin trên 5 ngày.
B. Viêm dạ dầy do nghiện rượu viêm dạ dầy ăn mòn tính ra là chiếm 20% các đợt xuất huyết đường dạ dầy-ruột trên trong số những người nghiện rượu. các đợt xuất huyết này thường nhẹ và đáp ứng với việc cai nghiện. thường ghi đơn cho điều trị bằng các thuốc đối kháng H2 hoặc sucralfate trong 2 đến 4 tuần.
C. Bệnh dạ dầy do tăng áp lực tĩnh mạch cửa tăng áo lực tĩnh mạch cửa dẫn đến xung huyết đường dạ dầy-ruột trên trong số những người nghiện rượu. các đợt xuất huyết do tăng áp lực tĩnh mạch cửa chiếm 25% các đợt xuất huyết đường dạ dầy – ruột trên ở các bệnh nhân tăng áp lực tĩnh mạch cửa, nó có thể xảy ra đột ngột với nôn máu hoặc âm ỷ với thiếu máu do thiếu sắt. thường gặp xuất huyết cấp tái phát. Điều trị bằng propranolol làm giảm tỷ lệ tái phát xuất huyết bằng cách hạ thấp áp lực tuần hoàn cửa. các bệnh nhân không đạt kết quả với điều trị bằng propranolol có thể sẽ thành công với các thủ thuật làm giảm áp tĩnh mạch cửa (xem phần điều trị giãn tĩnh mạch thực quản).
D. Viêm dạ dầy do stress các xói mòn niêm mạc liên quan với stress và xuất huyết dưới biểu mô phát triển trong vòng 18 giờ ở phần lớn các bệnh nhân trầm trọng, xuất huyết rõ ràng về mặt lâm sàng xẩy ra cho 5-10% các bệnh nhân không được điều trị nhưng xuất huyết nặng là dưới 2.5%. các nhân tố nguy cơ chủ yếu bao gồm suy hô hấp, bệnh về đông máu, chấn thương, bỏng, huyết áp thấp, tổn thường hệ thần kinh trung ương, nhiểm khuẩn huyết, suy gan và suy thân. Các bệnh nhân với nhiều nhân tố nguy cơ có nguy cơ xuất huyết cao hơn. Xuất huyết kem theo tỷ lệ chết cao hơn nhưng hiếm khi chính nguyên nhân tử vong.
Các thuốc đối kháng H2 làm giảm tỷ lệ xuất huyết rõ ràng trong viêm và loét tiêu hóa, khi được cho để phòng bệnh, truyền liên tục các thuốc đối kháng H2 với liều đủ để duy trì pH trong dạ dầy lớn hơn 4.0 là việc phải làm cho tất cả các bệnh nhân có nguy cơ cao ngay khi vào viện. Cimetidin (900-1200mg) ranitidine(150mg) hoặc famotidine (20mg) truyền liên tục trong 24 giờ là đủ cho phần lớn các bệnh nhân. Sau khi truyền được 4-6 giờ, phải kiểm tra pH ở dịch hút dạ dầy qua mũi vầ liều lượng tăng gấp đôi nếu pH là < 4.0. dịch treo sucralfate (cho 1g cứ 4-6 giờ một lần) có thể so sánh về hiệu quả với các thuốc đối kháng H2 trong việc dự phòng viêm dạ dầy do stress. Hơn nữa, trong một số nghiên cứu nó liên kết và ngăn tro việc hấp thu nên thuốc này phải cho dùng riêng. Không nên dùng Omeprazol để phòng bệnh trong viêm và loét tiêu hóa vì khả năng hấp thu thuốc chưa tiên đoán được của các bệnh nhân này.
Các bệnh nhân viêm dạ dầy do stress có xuất huyết rõ ràng , phải được truyền liên tục các thuốc đối kháng H2 ở các liều lượng đủ để duy trì pH trong dạ dầy là 5.0-7.0 . Vì xuất huyết thường lan tỏa, các kỹ thuật nội soi không giúp ích gì. Can thiệp ngoại khoa hiếm khi cần đến và có tỷ lệ chết cao
E. Viêm dạ dầy ăn mòn mạn tính (viêm dạ dầy dạng đậu mùa). Đây là một bệnh tự phát có đặc điểm là đau bụng thất thường, buồn nôn và nôn. Các sinh thiết phát hiện viêm dạ dầy tế bào lympho. Hiện không có liệu pháp nào có hiệu quả.
Theo Healthplus.vn