Lao dạ dầy-ruột có thể xẩy ra ở bất kỳ chỗ nào dọc theo đường dạ dầy-ruột. Tổn thương của ruột thường là biến chứng của lao phổ về mặt lâm sàng không được nhận ra. Nhiều trường hợp không có liên quan với cả hai cách nói trên.
Cách nhiễm khuẩn ăn phảo các trực khuẩn lao, với hình thành các tổn thương loét ở ruột đặc biệt ở vùng hồi-manh tràng và tổn thương của các hạch lympho mạc treo, hoặc cách khác, sự tái hoạt hóa của ổ sơ nhiễm ruột có thể đưa đến lao ruột hoạt động.
Phát hiện lâm sàng
Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dụng nạp thức ăn. Có thể đau bụng từ nhẹ đến đau thắt dữ đội, thường ở cung phần tư dưới phải và hay theo sau bữa ăn, có thể xuất hiện táo bón, nhưng tiêu chảy nhẹ tới nặng thì có tính đặc trưng hơn. Lao có thể gây tổn thương màng bụng, bệnh tiến triển mạn tính và có thể khó phân biệt với bệnh viểm ruột, u amip. Hoặc lympho, ung thư biểu mô ruột.
Các phát hiện thăm khám bụng không tiêu biểu, mặc dù có thể thấy hơi tăng cảm giác đau khi sờ chạm vùng phần tư dưới phải. Có thể thấy đường rò hậu môn. Sụt cân thường xẩy ra.
Không có các phát hiện tiêu biểu về xét nghiệm. Sự có mặt của các trực khuẩn lao trong phân không tương quan với tổn thương ruột.
Thăm khám X quang ruột phát hiện tăng kích thích và co thắt của ruột đặc biệt ở vùng manh tràng. Các tổn thương bị loét và những chỗ khuyết lấn đầy không đều đặn, đặc biệt ở ruột kết bên phải và vùng hồi manh tràng và thường có lao phổi. Soi ruột kết với sinh thiết có thể tỏ ra hữu ích trong việc xác lập chẩn đoán.
Điều trị và tiên lượng
Tiên lượng thay đổi theo tiên lượng của bênh phổi. Các tổn thương thường đáp ứng với chế độ điều trị lao phổi, tức là bốn loại thuốc trong 6-9 tháng. Phẫu thuật có thể cần thiết khi tắc ruột và để chẩn đoán, tuy các tổn thương ruột kết là dễ tiếp cận được để làm sinh thiết nội soi.
Các u của ruột non
Các u lành và ác tính của ruột non là hiếm thấy. Có thể không có triệu chứng hoặc dâu hiệu nhưng có thể xẩy ra xuất huyết hoặc tắc ( hoặc cả hai). Tắc thường do hoặc là lồng ruột với khối u ở đầu khối lồng hoặc là sự bít kín một phàn hoặc hoàn toàn lòng ruột do sự tăng trưởng của khối u. xuất huyết có thể gây ra yếu, mệt mỏi tăng, hơi chóng mặt. ngất, tái xanh vã mồ hôi, nhịp tim nhanh và phân hắc ín. Tắc gây buồn nôn, nôn và đau bụng. Bụng đau tăng khi sờ chạm, căng trướng, các tiếng ruột với thanh âm cao và rõ. Các tổn thương ác tính làm sụt cân và có những biểu hiện ngoài ruột( như đau do bao gan bị dãn căng, cơn đỏ bừng do ung thư biểu mô). Trong trường hợp ung thư biểu mô ta tràng có thể có hội chứng loét tiêu hóa. Hiếm khi sờ được khối u.
Nếu có xuất huyết, đại tiện phân máu đen và thiếu máu nhược sắc xẩy ra. X quang ( loạt chụp ruột non, tốt nhất là có thụt rửa ruột ) có thể cho thấy khối u và ruột non giãn to nếu có tắc ruột. Khi không có tắc ruột , việc xác minh khối u cực kỳ khó khăn.
Các u lành tính
Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phãu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.
U tuyến lành chiếm 25% toàn bộ các u lành của ruột
U mỡ thường xẩy ra nhất ở hồi tràng ; triệu chứng bộc lộ thường là tắc ruột do lồng ruột. U cơ trơn thường liên quan với xuất huyết và cũng gây lồng ruột. u mạch có tác động như các u nhỏ ở ruột khác nhưng có xu hướng xuất huyết nhiều hơn.
Bệnh đa polip ruột của đường dạ dầy-ruột (bất kỳ mức bào) liên quan với nhiễm sắc tố da-niêm mạc (hội chứng Peutz-jeghers) là một bệnh nhẹ. Đã có báo cáo về biến đổi ác tính nhưng hiếm và sự tồn tại của chúng chỉ trở thành một vấn đề với các biến chứng như là tắc và xuất huyết. Các polip là các u loạn sản phôi còn sắc tố là melanin. Sắc tố bộc lộ rõ rệt nhất ở trên môi và niêm mạc miệng.
Các u ác tính
Việc điều trị các u ác tính và các biến chứng của chúng thường là phẫu thuật.
Ung thư tuyến là ung thư thường gặp nhất của ruột non, xẩy ra nhiều nhất ở tá tràng và hỗng tràng. Các triệu chứng là do tắc hoặc xuất huyết. Tiên lượng xấu.
U lympho cũng biểu lộ lần đầu bằng tắc hoặc xuất huyết. Thủng ruột hoặc kém hấp cũng có thể xẩy ra. Chiếu xạ sau mổ đôi khi cũng có giá trị
Sarcoma hay xẩy ra nhất ở giữa ruột non và có thể biểu hiện lần đầu là khối u, tắc và xuất huyết.
Tiên lượng dè dặt
Các u carcinoid phát sinh từ các tế bào ưa bạc của đường dạ dầy-ruột. 90% các u này xẩy ra ở ruột thừa. và 75% của phần còn lại xẩy ra ở ruột non (thường ở hồi tràng phía xa). Các u dạng ung thư có thể phát sinh ở các vị trí khác kể cả ở dạ dầy, ruột kết , phế quản, tụy và buồng trứng. Phần lớn các u dạng ung thư ở ruột non không gây ra hội chứng dạng ung thư. Vấn đề chủ yếu là các di căn. Nói chung, hội chứng dạng ung thư chỉ xẩy ra với các u ác tính đã có di căn. U có thể tiết ra serotonin và bradykinin. Các biểu hiện toàn thân có thể gồm (1) cơn đỏ mặt bột phát và những triệu chứng vận mạch khác (2) khó thở và thở khò khè (3) các đợt tái phát đau bụng và tiêu chảy và (4) các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh van tim bên phải. Chẩn đoán được xác nhận bằng tìm ra các mức độ cao của 5-hydroxy-indoleacetic acid (một sản phẩm chuyển hóa của serotonin) trong nước tiểu. U nguyên phát thường nhỏ và sự tắc ruột là không thường xẩy ra. Các di căn thường nhiều nhưng lành tính một cách đáng ngạc nhiên. Điều trị theo triệu chứng và hỗ trợ, có thể cần phải cắt bỏ u nếu bệnh được nhận ra trước khi có lan rộng các di căn. Đáp ứng với điều trị bằng các thuốc đói kháng serotonin tỏ ra không đều dặn.
Dùng nhiều lần nhắc lại corticotropin hoặc các corticosteroid đôi khi có thể có giá trị. Tiên lượng chữa khỏi bệnh là xấu nhưng sống thêm dài hạn là không hiếm gặp
Theo Healthplus.vn