Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán
– Phần lớn các trường hợp tiêu chảy liên quan với kháng sinh không do Clostridium dificile và thương là nhẹ, tự khỏi.
– Các triệu chứng của viêm ruột kết liên quan với kháng ính thay đổi từ nhẹ đến dữ dội, phần lớn các triệu chứng này bị quy cho C. difficile.
– Chẩn đoán các ca nhẹ đên trung binhg được xác lập bằng thử nghiremj độc tố trong phân.
– Soi đại tràng sigma ống mềm cho phép chẩn đoán nhanh nhất trong các trường hợp nặng.
Các nhận định chung
Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng. Dặc biệt hauy gặp sai khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như ampicillin và clindamycin. Điều đặc trưng là tiêu chảy xẩy ra trong thời kỳ tiếp xúc với kháng sinh, liên quan với liều lượng, và tiêu tan tự phát sau thời kỳ ngững kháng sinh.
Trong phần lớn các trường hợp, tiêu chảy này nhẹ và không đòi hỏi sự đánh giá labo đặc biệt hoặc điều trị. Xét nghiệm phải thường phát hiện không có các bạch cầu ở phân và nuôi cấy phân không có các mẫu gây bệnh. Mặc dù C diificile được xác định trong phân ở 15-25% các trường hợp tiêu chảy liên quan với kháng sinh, nõ cũng được xác định ở 5-10% các bệnh nhân được điều trị kháng sính không có tiêu chảy. phần lớn tiểu chảy liên quan với kháng sinh không do C difficile gây ra.
Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh là một vấn đề lâm sàng quan trọng hầu như luôn do C difficile gây ra. Các bệnh nhân nằm viện hay bị thể này nhất. vi khuẩn yếm khí này xam chiếm ruột kết ở 2-3% những người lớn khỏe mạnh. Tuy nhiên ở các bệnh nhân nằm viện, nó có mặt trên 20% số bệnh nhân. Phần lớn những người này đã dùng kháng sinh làm rối loạn hệ khuẩn chí bình thường trong ruột và cho phép vi khuẩn này phát triển. đại đa số các bệnh nhân này không có triệu chứng. Vi khuẩn lan rộng theo cách từ phân lên miệng. Nó được thấy khắp nơi trong bệnh viện, phòng bệnh nhân và buồng tắm và dễ dàng truyền từ bệnh nhân sang bệnh nhân qua nhân viên bệnh viện. Rửa tay cẩn thận và sử dụng các gang tay dùng một lần giúp làm giảm thiểu sự lây truyền.
ở một số bệnh nhân bị vi khuẩn xâm chiếm, viêm ruột kết do C difficile gay ra sẽ phát triển. C difficile gây viêm ruột kết alf nguyên nhân chủ yếu của tiêu chảy ở các bệnh nhân nằm viện trên 3 ngày, gây bệnh cho 7:1000 bệnh nhân. Tuy hầu hết các kháng sinh đã được coi là có dính líu, viêm ruột kết thương hay phát sinh nhất sau khi dùng ampicillin, clindamycin và cephalosporin. Các triệu chứng thường bắt đầu trong hoặc sau liệu pháp kháng sinh, nhưng mauybe trì hoãn trong nhiều tuần. do đó, điều quan trọng là hỏi tất cả bệnh nhân bị tiêu chảy cấp tính về tiền sử mới dùng kháng sinh
Phát hiện lâm sàng.
A. Các triệu chứng và dấu hiệu phần lớn các bệnh nhân than phiền tiêu chảy ra nước nhẹ đến trung bình với đau thắt bụng dưới. Thăm khám thực thể thấy bình thường hoặc phát hiện ra tăng cảm giác đau nhẹ ở cung phần tư dưới trái của bụng với bệnh nặng hơn, có đau bụng và tiêu chảy nhiều nước tới 30 lần một ngày. Phân có thể có chất nhày nhưng ít khi có màu rõ ràng. Thường có sốt nhẹ, tăng cảm giác đau ở bụng và tăng bạch cầu. cuối cùng, một số bệnh nhân phát sinh viêm ruột kết bột phát với tình trạng ngủ lim, sốt, nhijpt im nhanh, đau và căn trướng bụng.
B. Các khám xét đặc biệt
1. Nghiên cứu phân
Các chủng gây bệnh của C difficile sản ra hai độc tố, độc tố A là một độc tố ruột và độc tố B là độc tố tế bào. Ở phấn lớn các bệnh nhân, chẩn đoán viêm mô lỏng lẻo liên quan với kháng sinh được xác lập bằng việc xác minh các độc tố C difficile trong phân. Một thử nghiệm độc tố tế bào trong phân (độc tố B) có độ đặc hiệu 99% và độ nhậy 95%. Đây là một test quyết định, nhưng cần làm trong 24 giờ. Thử nghiệm ELISA nhanh về các độc tố A và B đã được phát triển, 70-85% độ nhạy. Nuôi cấy C difficile là không nên làm vì chậm, tốn kém và không xác định được các chủng sinh độc. Nuôi cấy C difficile là không nên làm vì chậm, tốn kém và không xác định được các chủng dinh độc. các bạch cầu chỉ có trong phân ở 50% các bệnh nhân viêm ruột.
2. Nội soi đại tràng sigma ống mềm. Nội soi đại tràng sigma ống mềm được thực hiện ở các bệnh nhân với các triệu chứng nặng hơn khi chẩn đoán nhanh để đáp ứng nhu cầu bắt đầu tiến hành điều trị.
Ở các bệnh nhân với các dấu hiệu nhẹ đến trung bình, có thể không có các bất thường hoặc chỉ viêm ruột kết từng mảng hoặc lan rộng, không đặc trưng, không phân biệt với các nguyên nhân khác. Ở các bệnh nhân đau yếu nặng, người ta thấy viêm ruột kết giả mạc thật sự. Bệnh này có vẻ bên ngoài đặc biệt, với các tấm dính mầu vàng có đường kính 2-10mm rái rác trên niêm mạc ruột kết chen lẫn với niêm mạc xung huyết từng chỗ. Các sinh thiết cho thấy tình trạng loét biểu mô với một “núi lửa” điển hình dịch rỉ và các bạch cầu trung tính. Trong 10% các trường hợp, viêm ruột kết giả mạc hạn định ở ruột phía gần và có thể không thấy khi soi đại tràng sigma.
3. Các nghiên cứu hình ảnh chụp X quang bụng được thực hiện cho các bệnh nhân có các triệu chứng bột phát để tìm bằng chứng về sự co giãn to nhiễm độc hoặc bệnh to ruột kết. Phù niêm mạc hoặc “ dấu vết ngón cái” có thể thấy rõ.
Chẩn đoán phân biệt
Các nguyên nhân nhiễm khuẩn khác gây tiêu chảy cấp tính là không thường gặp ở các bệnh nhân nằm bệnh viện. Bệnh viêm ruột và viêm ruột kết do thiếu máu cục bộ cũng phải được cân nhắc đến.
Các biến chứng
Bệnh bột phát có thể đưa đến mất nước, mất cân bằng điện giả, giãn to ruột kết nhiễm độc, thủng ruột và chết. Viêm ruột kết mạn tính không được điều trị có thể dẫn đến sụt cân, bệnh ruột mất protein.
Điều trị
A. Điều trị bệnh cấp tính nếu có thể, phải ngừng liệu pháp kháng sinh. Ở các bệnh nhân có các triệu chứng nhẹ, việc làm như vậy có thể dẫn tới sự tiêu tan nhanh chóng các triệu chứng không cần điều trị đặc biệt. Nếu tiêu chảy dai dẳng hoặc các triệu chứng nặng, điều trị đặc hiệu là cần thiết. Thuốc tốt nhất là metronidazole, 250 mg uống 4 lần mỗi ngày trong 10 ngày. Vancomycin, 125 mg uống 4 lần mỗi ngày cũng có hiệu quả nhưng đắt tiền hơn nhiều.
Đối với những bệnh nhân không thể uống thuốc được, có thể cho metrtonidazol đường tĩnh mạch, tiêm tĩnh mạch vancoycin không vào tới ruột vì vậy không nên dùng. Sự cải thiện các triệu chứng sẽ xẩy ra trong vòng 72 giờ.
B. Điều trị đợt giảm bệnh có tới 20% các bệnh nhân bị tái phát tiêu chảy do C difficile trong vòng 1-2 tuần sau khi ngừng ăn khi ngừng điều trị lần đầu. Điều này có thể do tái nhiễm khuẩn hoặc không triệt căn được vi khuẩn. Phần lớn các tái phát đáp ứng nhanh với đợt điều trị thứ hai metronidazole. Một số bệnh nhân có các đợt tái phát khó điều trị. Một đợt điều trị 4-6 tuần bằng vancomycin, sau đó giảm liều chậm trong 1-2 tháng có thể đêm lại kết quả.
Theo Healthplus.vn