Các yếu tố thiết yếu trong chuẩn đoán
– Bệnh nhân bị ức chế miễn dịch.
– Nuốt đau, khó nuốt và đau ngực.
– Nội soi và sinh thiết xác nhận chuẩn đoán.
Các nhận định chung
Viêm thực quản nhiễm khuẩn xẩy ra nhiêu nhất ở các bệnh nhận bi ức chế miễn dịch. Các bệnh nhân AIDS, ghép cơ quan đặc, bệnh bạch cầu, u lympho và những người nhận các thuốc ức chế miễn dịch có nguy cơ đặc biệt bị các nhiễm khuẩn cơ hội. Candida albicans, herpes simplex, cytomegalovirus là những tác nhân gây bệnh thường gặp nhất. Nhiễm Candida cũng xẩy ra ở các bệnh nhân đái tháo đường không kiểm soát đươc và những người đang được điều trị bằng corticosteroid toàn thân, hóa liệu pháp, chiếu xạ liệu pháp hoặc kháng sinh liệu pháp toàn thân. Herpes simplex có thể lây nhiễm vật chủ bình thường nhưng trong trường hợp đó sự lây nhiễm thường giới hạn.
Các phát hiện lâm sàng
A. Các triệu chứng và dấu hiệu
Các triệu chứng và dấu hiệu thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xảy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng. Chứng nấm miệng chỉ thấy ở 50% số bệnh nhân với viêm thực quản do candida và 25-50% số bệnh nhân với viêm thực quản virus so đó không phải là chỉ số đáng tin cậy về nguyên nhân của nhiễm khuẩn thực quản. Các bệnh nhân bị nhiễm cytomegalovirus có thể có nhiễm khuẩn ở các vị trí khác nhau như là ruột kêt hoặc võng mạc. Các vết loét miệng (herpes môi) thường liên quan với viêm thực quản herpes simplex.
B. Các thăm khám đặc biệt
Điều trị có thể theo kinh nghiêm. Để có sự chắc chắn về chuẩn đoán, nội soi với sinh thiết và các mẫu chải tế bào học được ưa thích hơn vì tính chính xác chẩn đoán cáo. Các dấu hiệu nội soi của viêm thực quản do candida là những mảng lan tỏa, theo đường kẻ, màu trắng vàng dính vào niêm mạc. Viêm thực quản do cytomegalovirus có đặc điểm là có một hay nhiều chỗ loét nông, trên bề mặt lớn. Viêm thực quản do herpes dẫn đến nhiều chỗ loét nhỏ, sâu.
Điều trị
A. Viêm thực quản do candida
Điều trị phụ thuôc vào trạng thái miễn dịch của bệnh nhan và độ nặng của bệnh. Các lựa chọn bao gồm các tác nhân dùng tại chỗ (nystatin, 1-3 triệu đơn vị “xúc miệng và nuôt” năm lần mỗi ngày; clotrimazol viên nén, 10 mg ngậm tan tron miệng 5 lần mỗi ngày) các tác nhân uống (ketoconazol, fluconazol) và các tác nhân tiêm tĩnh mạch (amphotericin B, fluconazol) Liệu pháp tại chỗ đường dùng trước tiên cho các bệnh nhân có hệ thống miễn dịch bình thường. Liệu pháp ban đầu cho các bệnh nhân bị tổn hại miễn dịch (bao gồm cả AIDS) thường là với ketoconazol, 200-400 mg/ngày uống hoặc fluconazol 100-200 mg/ ngày uống trong 2-3 tuần. Mặc dù fluconazol đắt tiền hơn so với ketoconazol nhưng nó cũng có hiệu lực hơn và không đòi hỏi pH dạ dầy thấp để hấp thu. Các bệnh nhân không đáp ưng với liệu pháp uống được điều trị bằng liều thấp amphotericin B, 0.3-0.5 mg/kg/ngày tiêm tĩnh mạch trong 7 ngày.
B. Viêm dạ dầy do cytomegalovirus
Liệu pháp bân đầu là dùng ganciclovir 5mg/kg tiêm tĩnh mạch 12 giờ 1 lần trong 14-21 ngày. Giảm bạch cầu trung tính là một tác dụng phụ thường gặp gây hạn chế liều lượng. Nếu giải quyết được đỡ hơn các triệu chứng thì có thể ngừng thuốc nhưng nếu không được giải quyết, có thể tiếp tục liều đầy đủ trong 2-3 tuần thêm. Trong một số trường hợp (nhất là ở các bệnh nhân AIDS ) cần phải cho ganciclovir 5mg/kg tĩnh mạch liên tục mỗi ngày . Các bệnh nhân hoặc không có đáp ứng hoặc không dung nạp ganciclovir, được điều trị khẩn cấp bằng foscarnet 60mg/kg tiêm tĩnh mạch cứ 8 giờ một lần trong 14-21 ngày.
C. Viêm thực quản do herpes
Các bệnh nhân có khả năng miễn dich có thể chữa được triệu chứng và toàn thân không yêu cầu liệu pháp chống virus đặc hiệu. Các bệnh nhân bị ức chế miễn dịch có thể được điều trị bằng acylovir uống, 200 mg năm lần mỗi ngày hoặc 250 mg/m2 đường tĩnh mạch cứ 8-12 giờ một lần, thường trong 7-10 ngày. Những người không đáp ứng thì cần liệu pháp foscarnet, 40 mg/ kg đường tĩnh mạch cứ 8 giờ một lần trong 21 ngày.
Tiên lượng
Phần lớn các bệnh nhân bị viêm thực quản nhiễm khuẩn có thể điều trị có kết quả với việc giải quyết hoàn toàn các triệu chứng. Tùy thuộc vào mức độ suy giảm miễn dịch cơ bản của bệnh nhân, sự tái phát các triệu chứng khi không dùng liệu pháp nữa có thể gây khó khăn. Đôi khi cần dùng liệu pháp ức chế lâu dài.
Viêm thực quản do thuốc
Một số thuốc khác nhau có thể làm tổn thương thực quản có lẽ là di tiếp xúc trực tiếp kéo dài với niêm mạc. Các thuốc có dính líu thường gặp nhất là các thuốc chống viêm không có Steroid, các viên kali clorua, quinidin và các kháng sinh. Vì tổn thương rất có thể xẩy ra nếu các viên thuốc được nuốt khi đang nằm ngửa hoặc không có nước uống theo, các bệnh nhân nằm viện hoặc nằm liệt giường có nguy cơ cao hơn. Các triệu chứng bao gồm đau ngực nặng sau ức, nuốt đau và khó nuốt thường bắt đầu từ vài giờ sau khi uống viên thuốc. Các triệu chứng này có thể xẩy ra đột ngột và kéo dài trong nhiều ngày. Một số bệnh nhân đặc biệt những người già bị đau tương đối ít mà biểu lộ bằng sự khó nuốt. Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiều ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu. Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng. Làm bệnh xẩy ra nhanh khi tác nhân gây bệnh được loại trừ.
Tổn thương ăn mòn thực quản
Tổn thương ăn mòn ở thực quản xảy ra do nuốt phải ngẫu nhiên (thường là trẻ em hoặc cố ý (tự vẫn) chất kiềm (chất tẩy cống rãnh) hoặc chất acid tinh thể hoặc lỏng. Việc nuốt này gây ra hầu như lập tức sau đó bỏng nặng, các mức độ khác nhau về đau ngực, nghẹn khó nuốt và chảy nước dãi. Việc hít phải đưa đến tiếng thở rít và tiếng khò khè. Các bệnh nhân này cần được cấp cứu thật khẩn trương. Thăm khám ban đầu phải hướng vào trạng thái tuần hoàn và lượng giá kịp thời trạng thái đường thở, kể cả soi thanh quản. Sau đó phải thăm khám kỹ khoang miệng, ngực bụng. Chụp X quang ngực, bụng được thực hiện để phát hiện viêm phổi không điển hình hoặc thủng thông suốt. Điều trị ban đầu là hỗ trợ, với các dịch truyền tĩnh mạch và các thuốc giảm đau. Rửa dạ dầy thông qua mũi và các thuốc đối kháng dạng uống có thể là nguy hiểm và nói chung không đượcchỉ định. Phần lớn các bệnh nhân có thể được xư lý nội khoa. Nội soi thường được thực hiện trong 24 giờ đầu để lượng giá phạm vi tổn thương. Nhiều bệnh nhân được phát hiện là không có tổn thương niêm mạc thực quản hoặc dạ dầy, để cho ra viện kịp thời và chuyển đi khám tâm thần. Về mặt khác, sự xuất hiện ở nội soi không đoán trước được chính xác khả năng tổn thương xuyên rách và thủng. Tất cả các bệnh nhân đều bị tổn thương niêm mạc do đó phải được theo dõi cẩn thận trong 72 giờ đầu để tìm các dấu hiệu xấu đi. Tổn thương toàn bộ bề mặt thực quản báo trước nguy cơ tăng lên bị chít hẹp. Trước đây, các kháng sinh và các corticosteroid đã được dùng cấp cứu để cố gắng làm giảm tỷ lệ tạo nên chỗ chít hẹp, nhưng đã được thấy là không có hiệu quả. Phẫu thuật được chỉ định đối với nhiễm khuẩn huyết, sốc, thủng hoặc tình trạng xấu dần đi.
Theo Healthplus.vn