Liệu pháp để điều trị trĩ nội giai đoạn đầu, đã có hơn 50 năm lịch sử. Thuốc dùng trước đây thường là glyxerin axít cacbonic 5%, muối axit dầu gan cá 5%. Mấy năm gần đây, liệu pháp tiêm đã có những bước phát triển. Trên cơ sở liệu pháp làm khô trĩ, người ra đã nghiên cứu chế tạo ra dịch tiêm làm khô trĩ, khi tiêm sẽ làm búi trĩ bị hoại tử, rụng đi.
Các loại thuốc dùng trong liệu pháp tiêm, có những tác dụng khác nhau đối với các mô trĩ. Thông thường chia ra 2 loại là thuốc làm xơ hóa và thuốc gây hoại tử. Sử dụng thuốc hoại tử thường gây ra các hậu di chứng như: viêm nhiễm, chảy nhiều máu và hẹp trực tràng,… vì vậy, thường không được áp dụng. Thuốc tiêm làm xơ hóa, do tháo tác giản tiện, không phá vỡ chức năng sinh lý bình thường của hậu môn trực tràng, không gây các chứng kéo theo và ít di chứng sau phẫu thuật, vì thế được dùng rất phổ biến. Hiện nay một số học giả của các nước Âu Mỹ và Nhật bản cho rằng liệu pháp tiêm chính là liệu pháp làm xơ hóa búi trĩ.
Thuốc xơ hóa thường dùng có dầu phenon thực vật 5%, glyxerin phenon 5% muối axit dầu gan cá 5%, nhũ bột magie 4%,…
– Thuốc thường dùng có rất nhiều loại thuốc liệu pháp tiêm, thuốc thường dùng có vitamin C, dịch tiêm đường glucoza 5%, phenegan, quinin axit clohidric,…..Thuốc chế thường dùng là dịch linh tiêu trĩ: phèn chua, ngũ bội tử,…
– Phương pháp tiêm: căn cứ vào đặc điểm bệnh biến và giai đoạn nặng nhẹ của bệnh trĩ, có thể áp dụng các cách tiêm khác nhau. Thông thường được chia ra: tiêm đơn thuần, tiêm 2 lần vào một chỗ và tiêm 4 bước,…. Dưới đây giới thiệu cách tiêm thường dùng nhất là tiêm đơn thuần.
Cách này chủ yếu thích hợp với trĩ nội. Cho người bệnh nằm nghiêng bên trái, để lộ hoàn toàn hậu môn. Trước hết khử trùng theo quy định chung da vùng hậu môn, gây tê vùng rìa hậu môn, dùng kính để nhìn rõ trĩ nội, dùng thuốc tiêm đơn thuần, tiêm vào tầng dưới niêm mạc trĩ. Căn cứ vào loại thuốc tiêm khác nhau và độ lớn của búi trĩ mà quyết định liều lượng tiêm. Chú ý phải dùng vải bằng dầu và băng để băng bó cố định.
– Yếu lĩnh thao tác:
+ Khi tiêm thuốc, độ nông sâu phải thích hợp, nếu tiêm quá sâu vào tầng cơ, dễ gây ra hoại tử. Vị trí tiêm thích hợp nhất là tiềm vào tầng dưới niêm mạc và tầng niêm mạc ổn định. Khi tiêm phải đưa kim vào trung tâm trĩ, khi đầu mũi kim chọc vào tầng cơ sẽ tập tức sinh ra sự phản kháng của cơ, lúc này không được đưa kim vào thêm, mà nới lùi đầu mũi kim một chút, tức là đã đưa đầu mũi kim vào tầng dưới niêm mạc trĩ, khi đó mới bắt đầu tiêm thuốc, vừa rút kim vừa xoay kim để tiêm thuốc, tiêm cho đến khi trĩ căng phồng đều khắp thì dừng. Lượng thuốc phải vừa khớp. Khi đó niêm mạc chuyển từ màu đỏ sang màu trắng bợt, mạch máu trên niêm mạc xuất hiện một cách rõ ràng, nghĩa là lượng thuốc đã vừa phải.
+ Nếu tiêm dịch thuốc tập trung trên một bề mặt sẽ làm khoang ruột hẹp lại, còn khi dịch thuốc được phân bố đều, sẽ không bị tắc ruột.
+ Cơ thế trị liệu của thuốc xơ hóa: chủ yếu là làm xơ hóa các mô trĩ từ đó làm niêm mạc trĩ cố định lại và cầm máu. Bởi vậy, thuốc xơ hóa lý tưởng là phải gây xơ hóa tương đối mạnh ở khu cực tiêm, nhưng không gây hoại tử, không độc và không có tác dụng phụ.
+ Ưu, nhược điểm của liệu pháp tiêm: ưu điểm là thao tác giản tiện, có thể sử dụng nhiều lần, ít chứng kéo theo và hậu di chứng. Khuyết điểm là chúng thích ứng chỉ giới hạn ở trĩ nội độ 1 và 2, tỷ lệ tái phát cao, lượng thuốc tiêm vừa phải khó kiểm soát chính xác, nếu lượng thuốc tiêm quá nhiều dễ gây ra các chứng bội nhiễm như: trĩ bị xơ kết quá lớn, hoại tử và chảy nhiều máu.
Theo Healthplus.vn