Bệnh án 11: Viêm gan mạn tính
Bệnh nhân: Hoa XX, 40 tuổi.
Nghề nghiệp: Cán bộ
Chứng bệnh: Người bệnh mắc bệnh viêm gan thể không vàng da đã hơn 1 năm, đã mấy tháng nay không thể làm việc, người mệt mỏi, kém ăn, sườn đau, sắc mặt vàng bũng, môi nhạt, lưỡi non nhạt, rêu trắng dày, mạch huyền, gan to 2,5cm, Transaminase 500 đơn vị.
Chẩn đoán: Viêm gan mạn tính.
Biện chứng Đông y: Tỳ khí hư nhược.
Phép chữa: Kiện tỳ bổ khí, phò thổ ức mộc.
Dùng thuốc: Man can lục vị ẩm
Thái tử sâm: 15g
Bạch truật: 12g
Cam thảo: 5g
Phục linh: 15g
Xuyên tỳ giải: 12g
Hoàng bì thụ diệp: 15g
Cho bệnh nhân uống bài thuốc Mạn can lục vị ẩm nói trên thêm Biển đậu 12g.
Sau khi uống thuốc được nửa tháng, giảm đau sườn, tinh thần tốt lên, ăn uống ngon hơn nhưng vẫn còn mệt. Tiếp tục cho bệnh nhân uống thuốc, bỏ vị Hoàng thụ diệp bì, uống nửa tháng, Transaminase giảm còn 200 đơn vị. Dùng bài thuốc trên gia giảm cho uống tiếp 3 tháng. Kiểm tra thấy các chứng trạng đều hết, người bình thường, cho bệnh nhân kiên trì uống thuốc đến nửa năm để củng cố tác dụng. Theo dõi 5 năm chưa thấy có hiện tượng bệnh tái phát.
Bàn luận: Viêm gan mạn là bệnh thuộc hai tạng can và tỳ, nhưng chủ yếu là bệnh ở tạng tỳ, tỳ hư là cộng tính của gốc bệnh, nên nguyên tắc chung để trị bệnh viêm gan mạn tính là kiện tỳ bổ khí, phù thổ ức mộc. Các chứng viêm gan mạn tính khác đều có thể dùng bài thuốc Mạn can lục vị ẩm gia giảm để điều trị cũng đạt được hiệu quả tốt.
Bệnh án của Đặng Thiết Đào (TQ)
(Trích trong Thiên gia diệu phương)
Bệnh án 12: Viêm gan mạn tính
Bệnh nhân: Trần XX, nam, 23 tuổi
Khám ngày: tháng 5 năm 1971
Chứng bệnh: Bệnh nhân cho biết năm 1967 mắc chứng bệnh viêm gan do virus cấp tính, đã điều trị nửa năm tại một bệnh viện. Sau khi điều trị, các chứng trạng cũng như chức năng gan chuyển biến tốt, xuất viện. Nhưng xuất viện mấy năm rồi mà vẫn còn đau vùng gan, khi người mỏi mệt thì càng đau nhiều. Tháng 10 năm 1970 bắt đầu thấy đau ở vùng lách. Đến tháng 5 năm 1971, hai bên sườn đau nặng thêm, tay chân bải hoải, không muốn ăn uống, đại tiện phân lỏng, lòng bàn tay, bàn chân nóng. Khám thấy tình trạng nói chung còn khá, bờ gan trên ở giữa gian sườn thứ 5, bờ dưới ở dưới mép sườn 2cm trên đường vạch giữa đòn, mềm, sờ đau, có thể sờ được lách tới 1 cm, sờ hơi đau, mu bàn tay có thể sờ thấy các vết mạng nhện. Xét nghiệm: chức năng gan bình thường, huyết tiểu cầu 120.000/mm3, rêu lưỡi trắng, mạch trầm hoạt.
Chẩn đoản: Viêm gan mạn tính.
Biện chứng Đông y: Can uất tỳ hư, khí trệ huyết ứ, thấp nhiệt chưa được thanh trừ.
Phép chữa: Kiện tỳ sơ can, hoạt huyết hóa ứ, phối hợp thanh nhiệt trừ thấp.
Dùng thuốc: Ích can thang
Đảng sâm: 12g
Hoắc hương: 10g
Nhân trần: 15g
Bạch thược: 12g
Phật thủ: 10g
Trạch lan: 15g
Sao bạch truật: 10g
Sao thương truật: 10g
Đương quy: 12g
Hương phụ: 12g
Sơn tra: 15g
Sinh mẫu lệ: 15g
Vương bất lưu hành: 12g
Sắc uống ngày 1 thang.
Trong quá trình điều trị, đã dùng bài thuốc trên gia giảm, sử dụng Bội lan 10g, Sinh dĩ mễ 15g, Hồng hoa 12g, Miết giáp 12g; đồng thời dùng thêm thuốc Tây y để trợ gan.
Sau hơn 2 tháng dùng thuốc điều trị, các triệu chứng đã chuyển biến tốt, ăn ngủ và đại tiểu tiện bình thường, chân tay đỡ bải hoải, lòng bàn tay bàn chân không còn nóng, giảm đau nhiều ở vùng gan lách, gan ở bờ sườn dưới 1cm, sờ không thấy đau, lách sờ chưa thấy. Xét nghiệm chức năng gan cũng chưa thấy gì khác thường, tiểu huyết cầu tăng lên đến 168.000/mm3.
Dùng bài thuốc trên làm thành viên cho uống để củng cố tác dụng về sau.
Bàn luận: Bệnh nhân này sưng gan và lách, xét nghiệm chức năng gan bình thường, chân tay bải hoải, không thích ăn uống, đại tiện phân lỏng, rêu lưỡi trắng, mạch trầm hoạt, đó là các triệu chứng thuộc can uất tỳ hư, khí trệ huyết ứ; lại có vết mạng nhện, hai bên sườn đau tức, mạch hoạt, chứng tỏ là thấp nhiệt chưa thanh. Do vậy, trong sự phù chính thì nặng về kiện tỳ thư can, trong bài có Đảng sâm, Bạch truật (sao), Thương truật (sao) để kiện tỳ tháo thấp; Đương quy, Bạch thược để dưỡng huyết nhu can, lại phối hợp các thuốc sơ can lý khí và hoạt huyết hóa ứ, khí hành ắt huyết hoạt, huyết hoạt thì ứ dễ trừ. Như vậy bài thuốc có hiệu lực điều trị như mong muốn.
Bệnh án của Quan Ấu Ba ở Bắc Kinh (TQ)
(Trích trong Thiên gia diệu phương)
Bệnh án 13:
Bệnh nhân: Đinh Văn Quang, 47 tuổi, nam
Nghề nghiệp: Nghề nông.
Địa chỉ: Người ở làng Phù Long, huyện Phúc Thọ (Sơn Tây)
Chứng bệnh: Tháng 7 năm 1957, khi vụ gặt chiêm phơi phóng vừa xong, ngã bệnh sốt nóng, sợ rét, tinh thần mỏi mệt, ăn uống kém sút… Mỗi cơn sốt kéo dài từ 3 – 4 giờ mới lui. Trước còn mỗi ngày 1 cơn, sau dần dần 2 – 3 ngày 1 cơn… Bệnh tình cứ dai dẳng như vậy cho đến tháng 5 năm 1958, bỗng thấy màu da biến thành sắc vàng, cả tròng mắt cũng vàng. Trong thời gian gần một năm trời đó đã uống khá nhiều thuốc Tây, thuốc Ta mà chỉ như muối bỏ bể. Đến lúc da biến sắc vàng, loại xoay sang các mặt thuốc chữa Hoàng đản, chữa mãi đến tháng 4 năm 1959 vẫn không có kết quả. Đến trung tuần tháng 10 năm 1959, người nhà đưa đến nhà tôi (Nguyễn Tử Siêu) điều trị.
Khám bệnh: Xét về hiện chứng sốt nóng, rét run, cứ 2 – 3 ngày lên 1 cơn, sắc mặt vàng sạm, không có vẻ bóng, hai bên lòng trắng mắt đều vàng, khắp mình màu da cũng sạm xỉn, bụng trên đầy tức khó chịu, ăn uống kém sút, khi ăn vào bụng lại càng đầy tức, thường váng đầu hoa mắt, trong tâm hồi hộp, tinh thần mỏi mệt, tay chân gầy róc, nhiều khi giá lạnh, đại tiện lỏng, sắc vàng, tiểu tiện nước vàng đục, có lúc đỏ sẫm, rêu lưỡi trắng nhợt và nhớt… mạch huyền , trì, hoãn, mạch bên trái cường, bên phải nhược.
Chẩn đoán: bệnh Cốc đản.
Phép chữa: Ôn bổ tỷ vị
Phương pháp điều trị: Cứu làm chủ yếu, châm là thứ yếu.
Phương huyệt: Ngoài việc chọn những huyệt kinh nghiệm của người xưa: Uyển cốt, Chí dương, Lao cung, Nội quan… còn chọn những Du huyệt, Mộ huyệt làm chủ như Can du, Tỳ du, Vị du, Đởm du, Trung quản, Chương môn, Kỳ môn… đều thay đổi sử dụng. Ngoài ra, chọn dùng các huyệt của mạch Nhâm như Quan nguyên, Khí hải và các huyệt của tỳ vị như Túc tam lý, Tam âm giao… cũng đều thay đổi sử dụng. Phần nhiều châm rồi cứu, có khi chỉ sử dụng cứu, không châm.
Tôi (Nguyễn Tử Siêu) ấn định cứ 4 ngày điều trị làm 1 liệu trình, hết 1 liệu trình nghỉ 2 ngày, lại tiếp tục điều trị.
Qua 2 liệu trình điều trị, bệnh tình không có gì thay đổi. Từ liệu trình thứ 3 trở đi, mỗi ngày thấy giảm bớt dần dần… đến hết liệu trình thứ 4, bệnh nhân ăn đã biết ngon, mỗi bữa ăn được 3 bát cơm, sau khi ăn xong không còn có những hiện tượng hoa mắt, đầy ưu tư như trước nữa.
Trước sau cứu và châm đến 8 liệu trình, các chứng trạng hoàn toàn khỏi hẳn. Bệnh nhân xin về quê.
Bàn luận: Xét về hiện tượng, đúng như bệnh Cốc đản trong Kim quỹ, Trọng Cảnh viết: “Bệnh Cốc đản phát hàn nhiệt, không ăn được, hễ ăn vào thì choáng đầu hoa mắt, tâm tỳ không yên, lâu ngày thì phát vàng da, gọi là Cố đản…”. So với bệnh này thật không khác. Đến như các nguyên nhân phát sinh chứng Cốc đản, trong Kim quỹ cũng nói rõ: “Phong với hàn chọi nhau, ăn cơm vào hoa mắt, cốc khí không tiêu, trong vị chứa nhiều trọc khí, sẽ luôn luôn chảy xuống phạm vào thận, thận âm bị trọc tà xâm phạm, không những làm cho tiểu tiện không thông lợi, mà còn làm cho những chất bẩn đó lại chạy vào bàng quang, ứ đọng lại đến nỗi làm cho khắp mình biến thành vàng da… như vậy gọi là Cốc đản”. Xem đoạn viết đó, đủ thấy rõ phần nhiều bệnh này do phong hàn từ bên ngoài phạm vào, tỳ hư không tiêu hóa được thức ăn, ăn vào không tiêu thì trong vị sinh ra trọc khí, trọc khí đó trước phạm vào thận, sau dồn ra bàng quang gây nên tình trạng phát vàng da. Lại xét: Bệnh nhân vốn là nông dân, hằng ngày thường mưa dầm dãi nắng, ăn uống thất thường khi no khi đói, tỳ vị rất dễ bị thương dẫn đến mất sự vận hóa nên mới phát sinh bệnh này. Căn cứ vào hiện chứng và tài liệu trong Kim quỹ có thể xác định bệnh này là Cốc đản. Do bệnh phát sinh đã quá lâu, bệnh tà và chính khí đều đi đến tình trạng kém sút, nên phải dựa vào mặt “âm hoàng” để điều trị. Chủ yếu là ôn bổ tỳ vị, một khi tỳ vị khỏe thì thấp sẽ tự tiêu, không chữa triệu chứng vàng da mà vàng da tự khỏi.
Chọn các Du huyệt, Mộ huyệt là bởi Du huyệt và Mộ huyệt là nơi lưu trú, du tống của bản kinh, bản tạng; châm cứu các huyệt đó có mục đích là trực tiếp tới bản tạng để đi đến tác dụng điều chỉnh và khôi phục. Chọn các huyệt trên mạch Nhâm và các huyệt của tỳ vị đều là những huyệt có tác dụng cường tráng và điều bổ.
Bệnh án của Nguyễn Tử Siêu
(Trích trong Tử Siêu y thoại)
Theo Healthplus.vn