VI. Tăng chỉ số men gan
Một số loại hóa chất làm tổn hại tới tế bào gan, làm nồng độ men tăng cao, gan bị sưng, đau vùng gan, hoàng đản,… nhưng thường nhẹ và cũng nhanh chóng khỏi.
Khi bị tổn thương gan, có những biểu hiện lâm sàng khác nhau, phần lớn bệnh nhân thường thấy khó chịu nên trước khi sử dụng hóa chất cần kiềm tra chức năng gan, đề nghị mỗi tuần kiểm tra một lần để kịp thời phát hiện và giải quyết vấn đề, nếu nghiệm trọng phải dừng ngay việc sử dụng hóa chất.
Khi bị tổn thương gan thì có những biểu hiện giống như bị viêm gan, kém ăn, mệt mỏi, buồn nôn, gan sưng nhẹ có kèm theo hiện tượng đau mạng sườn.
Nếu tổn thương gây ứ mật thì không thấy có những triệu chứng kể trên hoặc chỉ thấy chỉ số men gan tăng cao, ngừng dùng hóa chất thì không sốt nhưng lại có hiện tượng nổi nốt mẩn ngoài da.
Người bị ứ mật có kèm theo chứng viêm thường thể hiện giống như viêm gan ứ mật có sốt cao, rét run, buồn nôn, đau bụng và nổi mẩn ngoài da,… giống như các triệu chứng nói trên, sau đó sẽ cuất hiện nước tiểu màu vàng, đò, vàng da, ngứa ngáy khó chịu và sưng gan có kèm theo tức bụng,… Hiện tượng ngứa xuất hiện trước khi xuất hiện vàng da và sẽ hết sau 1 – 4 tuần khi ngừng sử dụng hóa chất, có rất ít người kéo dài tới 3 tháng.
VII. Hóa chất bị rò ra ngoài mạch máu và bệnh viêm tĩnh mạch.
Khi tiêm truyền hóa chất, nếu vô ý để hóa chất bị rò ra ngoài mạch, vào tổ chức dưới da sẽ gây sưng tấy và đau đớn, thậm chí còn bị hoại tử ở khi vực đó, có trường hợp chữa lâu những vết thường không lành. Tuy nhiên, đây chỉ là trường hợp rất hiếm thấy vì bác sĩ và hộ lý bao giờ cũng rất cẩn thận, tỉ mỉ cẩn thận để dự phòng. Khi truyền hóa chất vào tĩnh mạch phải chọn lựa mạch máu khỏe và do hỗ lý thành thạo công việc thực hiện tiêm, truyền nhưng cần hết sức cẩn thận không nên chủ quan để tránh thuốc rò ra ngoài mạch gây hậu quả nghiêm trọng.
Nếu bệnh nhân thấy đau trong lúc tiêm truyền cần đóng ngay van truyền lại và báo cho bác sĩ biết để kịp thời xử lý ngay.
Có một số loại thuốc hóa chất tuy không bị rò ra ngoài mạch máu nhưng vẫn có thể gây viêm tĩnh mạch. Biểu hiện là dọc theo mạch máu nổi lên một đường đỏ, đau đớn, da bị đỏ, sau đó ở những đường này máu bị thẫm lại, mạch máu bị cứng từng đoạn hoặc bị tắc. Đó là hiện tượng viêm tĩnh mạch.
Khi thấy có hiện tượng này, bệnh nhân cần thông bào ngay cho bác sĩ chuyên môn để được xử lý kịp thời.
VIII. Phối hợp sử dụng thuốc Đông y.
Về phương diện điều trị bằng hóa chất, Đông y cho rằng, hóa chất là chất độc và thực tế điều trị bằng hóa chất cũng là lấy độc trị độc, khi thuốc hóa chất tiêu diệt tế bào ung thư thì cũng giết chết cả các tế bào bình thường làm tổn thương cơ thể, gây tổn hại tới tỳ vị, khí huyết hư nhược.
Mấy năm gần đây rất nhiều bác sĩ ở Trung Quốc đã nhận ra rằng khi sử dụng hóa chất điều trị mà sử dụng kèm thêm thuốc Đông y sẽ có tác dụng trợ giúp nâng cao và tăng cường sức đề kháng đối phó với những phản ứng của hóa chất. Thuốc Đông y sử dụng trong khi sử dụng hóa chất có 2 loại kiện từ hóa vị và ích khí dưỡng huyết.
– Loại kiện tỳ hóa vị
Thuốc Đông y có tác dụng giảm nhẹ và khống chế nhất định đối với những phản ứng phụ của hóa chất. Dùng thuốc Tây y để chống nôn có thể đạt được hiệu quả chống nôn rất mạnh, nhưng cũng tạo ra phản ứng xấu với mức độ khác nhau, đặc biệt là táo bón gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cuộc sống. Thuốc Đông y một mặt có thể giảm nhẹ phản ứng phụ của thuốc chống nôn, mặt khác có thể điều chỉnh được chức năng của tỳ vị làm cho bệnh nhân thèm ăn và nâng cao được chất lượng sống.
Một số vị thuốc thường được sử dụng trong việc kiện tỳ, hóa vị là khương bán hạ, trúc như, trần bì, sa sâm, phục linh, bạch truật, hoàng liên,….
– Loại ích khí dưỡng huyết
Do việc kết hợp Đông và Tây y có hiệu quả rất tốt trong việc điều trị các phản ứng phụ khi sử dụng hóa chất, thuốc dự phòng ức chế hoạt động của tủy xương ngày một nhiều làm cho tính an toàn của việc điều trị ung thư bằng hóa chất đã được nâng cao. Ngoài việc dùng thuốc bổ khí dưỡng huyết, kiện tỳ ích vị còn cần loại thuốc kiện tỳ bổ thận để bảo vệ xương tủy.
Các vị thuốc thường dùng là: hoàng kỳ, đảng sâm, câu kỷ tử, nữ trinh tử, bổ cốt chi, hoàng tinh, kê huyết đằng,….
Theo Healthplus.vn