Tiêu chảy là một triệu chứng thông thường có thể xếp loại theo mức độ nặng từ mức phiền toái cấp tính có giới hạn đến mức nặng, đe dọa tính mạng. Các bệnh nhân có thể dùng từ “ tiêu chảy” để nói đến số lần đại tiện tăng, tăng độ lỏng của phân, một cảm giác thải phân khẩn cấp, hoặc không kiềm chế được phân (nín ỉa) Để đánh giá thích đáng điều than phiền, thầy thuốc phải xác định được mô hình đại tiện bình thường của bệnh nhân và bản chất của các triệu chứng hiện tại.
Trong trạng thái bình thường, xấp xỉ 10 lít chất lỏng đi vào tá tràng hàng ngày, trong đó 1.5 lít được ruột non hấp thụ. Ruột kết hấp thụ phần lớn lượng chất lỏng còn lại và chỉ 100 ml mất đi trong phân. Từ quan điềm y học, tiêu chảy được định nghĩa là trọng lượng phân lớn hơn 250g/24 giờ. Trong thực tế, việc định lượng phân chỉ cần thiết ở một số bệnh nhân bị tiêu chảy mãn tính. Trong phần lớn các trường hợp. định nghĩa được chấp nhận về tiêu chảy là tăng số lần đại tiện ( hơn 2 hoặc 3 lần một ngày) hoặc phân lỏng.

Các nguyên nhân tiêu chảy là vô vàn.Trong thực tế lâm sàng, điều có ích là phân biệt giữa tiêu chày cấp tính và mãn tính vì sự đánh góa và điều trị là hoàn toàn khác nhau. Các nguyên nhân của hai loại này được nêu trong các bảng 13-3 và 13-6.
I. Nguyên nhân và các phát hiện lâm sàng.
Tiêu chảy bắt đầu cấp tính và kéo dài dưới 3 tuần thường gặp nhất gây ra do các tác nhân nhiễm khuẩn, các độc tố vi khuẩn (hoặc sẵn có trong thức ăn hoặc sản xuất ra trong ruột); các thông tin dịch tễ học có thể cung cấp đầu mối cho tác nhân gây bệnh. Bệnh tượng tự mới đây trong gia đình làm nghĩ đến nguồn gốc nhiễm khuẩn. Việc mới ăn thực phẩm được dự trữ hoặc chế biến không đúng đắn, dính líu với ngộ độc thức ăn, đặc biệt nếu những người khác cũng bị bệnh tương tự. Tiếp xúc với nước không thanh lọc( cắm trại, bơi) có thể đưa đến nhiễm Giardia hoặc Cryptoporodium. Cuộc du lịch nước ngoài mới đây làm nghĩ đến “ tiêu chảy của du khách”. Việc cho kháng sinh trong nhiều tuần trước làm tăng khả năng chắc chắn về viêm ruột kết do Clostridium dificile. Cuối cùng, các nhân tố nguy cơ về nhiễm HIV hoặc các bệnh lây truyền đường tình dục phải được xác định(tiêu chảy liên quan vơi AIDS) NHững người thực hành giao hợp đường hậu môn không có bảo vệ có nguy cơ cao bị nhiễm nhiều bệnh nhiễm khuẩn bao gồm lậu, giang mai, bệnh lympho hạt (Hodgkin) và herpes simplex. Nhiều thuốc có thể gây tiêu chảy qua những cơ chế khác nhau và không nên xem nhẹ; các thuốc này không được bàn luận thêm ở đây. Bản chất của tiêu chảy giúp phân biệt các nguyên nhân nhiễm khuẩn khác nhau (bảng 13-4).
A. Tiêu chảy không do viêm Tiêu chảy loãng nước, có máu liên kết với co thắt quanh rốn, chướng bụng, buồn nôn hoặc nôn (riêng rẽ hay kết hợp) làm nghĩ đến viêm ruột non gây ra do vi khuẩn sinh độc tố (E coli sịnh độc tố [ETEC], tụ cầu khuẩn vàng, bacillus cereus, C perfrigens) hoặc các nhân tố khác (vius, Giardia) làm rối loạn sự hấp thụ bình thường và quá trình bài tiết trong ruột non. Nôn nhiều làm nghĩ đến việc viêm ruột do virus hoặc S. aureus (tụ cầu vàng) gây ngộ độc thức ăn. Mặc dầu nói chung là nhẹ, tiêu chảy (bắt nguồn từ trong ruột non) có thể có khối lượng lớn (trong phạm vi 10-200 ml/kg/24 giờ) dẫn đến mất nước, giảm kaki huyết và nhiễm toan chuyển hóa do mất HCO3 trong phân (như bệnh tả) Do không có sự xâm nhập vào mô nên không có các bạch cầu trong phân.
B. Tiêu chảy do viêm Sự xuất hiện sốt và tiêu chảy có máu (lỵ) chứng tỏ có tổn thương mô ruột kết gây ra do sự xâm nhập( bệnh do lỵ trực khuẩn Shigella, salmonella, nhiễm khuẩn Campylobacter hoặc Yersinia, bệnh amip) hoặc một độc tố (C.difficile, E.coli 0157:H7). Vì các sinh vật nàu chủ yếu gây tổn thương ruột kết, tiêu chảy có khối lượng nhỏ (< 1L/ ngày) và liên kết với co thắt phần tư dưới bên trái bụng, thúc bạch buốt mót đại tiện. Các bạch cầu ở phân xuất hiện trong các nhiễm khuẩn có xâm nhập của vi sinh vật E.coli 0157:H7 là những vi sinh khuẩn sinh độc tố không xâm nhập, có thể lây truyền do thịt bi ô nhiễm và đưa đến những cơn bột phát viêm ruột kết xuất huyết cấp tính , thường là nặng. Ở các bệnh nhân bị tổn hạo miễn dịch và nhiễm HIV , các thức ăn có thịt ô nhiễm có thể gây loét ruột vơi tiêu chảy loãng nước và có máu.
C. Sốt thương hàn Một bệnh nhâ toàn thân nặng biểu hiện ban đầu bằng sốt cap kéo dài, mêt lử, lú lẫn các triệu chứng hô hấp sau đó tăng cảm giác đau ở bụng, tiêu chảy, phát ban do nhiễm Salmomella Typhi hoặc Paratyphi gây ra nhiễm khuẩn huyết và rối loạn chức năng nhiều cơ quan.
II. Đánh giá.
Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy câp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi,đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy. Trong những trường hợp này, việc nghiên cứu xét nghiệm để xác minh tác nhân gây bệnh là không cần thiết vì nó gây tốn kém, thường không phát hiện được gì và không có tác dụng điều trị. Thật vậy, tỷ lệ phân lập vi khuẩn gây bệnh từ các mẫu nuôi cấy phân ở các bệnh nhân tiêu chảy cấp tính là dưới 30%. Như vậy, mục tiêu đánh giá ban đầu là phân biệt các bệnh nhân này với các bệnh nhân mắc bệnh nặng hơn. Ở nhiều phòng khám bệnh goại trú, soi hiển vi phân tìm các bạch cầu trong phân được thực hiện để phân biệt tiêu chảy không viêm vơi tiêu chảy viêm. Sự xuất hiện bạch cầu làm nghĩ đến tiêu chảy do viêm và chứng tỏ sự cần thiết của nuôi cấy vi khuẩn ở phân.
Bảng 13-4: Các nguyên nhân gây tiêu chảy nhiễm khuẩn cấp tính.
Tiêu chảy không do viêm |
Tiêu chảy do viêm |
VirusVirus NorwalkVirus giống Norwalk
Rotavirus
Nguyên sinh động vpật
Giardia lamblia
Cryptosporidium
Vi khuẩn
1.Sản ra độc tố ruột tử trước
Tụ cầu khuẩn vàng (S.aureus)
Bacillus cereus
Clostridium perfringens
2. Sản ra độc tố ruột
E coli sinh độc tố ruột (ETEC)
Phảy khuẩn tả (Vibrio cholerae) |
VirusCytomegalovirus
Nguyên sinh động vật
Entamoeba histolytica
Vi khuẩn
1. Sản ra độc tố tế bào
Xuất huyết ruột
E.coli 0 157: H7
Phảy khuẩn parahaemolyticus
2. Xâm nhập niêm mạc
Shigella
Campylobacter jejuni (hỗng tràng)
Salmonella
E.coli xâm nhập ruột (EIEC)
Aeromonas
Plesiomonas
Yersinia enterocolitica
Chalamydia
Neisseria gonorhoeae |
A. Tiêu chảy không do viêm.
Tiêu chảy loãng nước, có máu liên kết với co thắt quanh rốn, chướng bụng, buồn nôn hoặc nôn (riêng rẽ hay kết hợp) làm nghĩ đến viêm ruột non gây ra do vi khuẩn sinh độc tố (E coli sịnh độc tố [ETEC], tụ cầu khuẩn vàng, bacillus cereus, C perfrigens) hoặc các nhân tố khác (vius, Giardia) làm rối loạn sự hấp thụ bình thường và quá trình bài tiết trong ruột non. Nôn nhiều làm nghĩ đến việc viêm ruột do virus hoặc S. aureus (tụ cầu vàng) gây ngộ độc thức ăn. Mặc dầu nói chung là nhẹ, tiêu chảy (bắt nguồn từ trong ruột non) có thể có khối lượng lớn (trong phạm vi 10-200 ml/kg/24 giờ) dẫn đến mất nước, giảm kaki huyết và nhiễm toan chuyển hóa do mất HCO3 trong phân (như bệnh tả). Do không có sự xâm nhập vào mô nên không có các bạch cầu trong phân.

B. Tiêu chảy do viêm.
Sự xuất hiện sốt và tiêu chảy có máu (lỵ) chứng tỏ có tổn thương mô ruột kết gây ra do sự xâm nhập( bệnh do lỵ trực khuẩn Shigella, salmonella, nhiễm khuẩn Campylobacter hoặc Yersinia, bệnh amip) hoặc một độc tố (C.difficile, E.coli 0157:H7). Vì các sinh vật nàu chủ yếu gây tổn thương ruột kết, tiêu chảy có khối lượng nhỏ (< 1L/ ngày) và liên kết với co thắt phần tư dưới bên trái bụng, thúc bạch buốt mót đại tiện. Các bạch cầu ở phân xuất hiện trong các nhiễm khuẩn có xâm nhập của vi sinh vật E.coli 0157:H7 là những vi sinh khuẩn sinh độc tố không xâm nhập, có thể lây truyền do thịt bi ô nhiễm và đưa đến những cơn bột phát viêm ruột kết xuất huyết cấp tính , thường là nặng. Ở các bệnh nhân bị tổn hạo miễn dịch và nhiễm HIV, các thức ăn có thịt ô nhiễm có thể gây loét ruột vơi tiêu chảy loãng nước và có máu.
C. Sốt thương hàn.
Một bệnh nhâ toàn thân nặng biểu hiện ban đầu bằng sốt cap kéo dài, mêt lử, lú lẫn các triệu chứng hô hấp sau đó tăng cảm giác đau ở bụng, tiêu chảy, phát ban do nhiễm Salmomella Typhi hoặc Paratyphi gây ra nhiễm khuẩn huyết và rối loạn chức năng nhiều cơ quan.
Theo Healthplus.vn