Trong cuộc hiện đại ngày nay, có rất nhiều căn bệnh không nguy hiểm nhưng chúng có thể dẫn đến ung thư nếu không điều trị kịp thời. Dưới đây là 4 loại bệnh phổ biến và nó có thể dẫn đến ung thư nếu không được chữa trị, trong đó có bệnh trĩ.
I. Bệnh trĩ.
Bệnh trĩ là sự co giãn quá mức ở các đám rối tĩnh mạch xung quanh khu vực hậu môn trực tràng, làm cho máu ở khu vực này ứ đọng, tĩnh mạch bị giãn và phình to ra. Ở Việt Nam có khoảng 30 – 50% tỷ lệ dân số mắc bệnh trĩ. Trong đó, 10 – 30% cần được điều trị bệnh trĩ, 20% cần phải thực hiện phẫu thuật để giải quyết.
Những bệnh nhân bị bệnh trĩ thường có tâm lý chủ quan, vì họ cho rằng đây là một căn bệnh không nguy hiểm. Nhưng trên thực tế thì không phải như vậy, bệnh trĩ không chỉ gây đau đớn, cản trở chất lượng cuộc sống mà nó sẽ để lại những biến chứng nguy hiểm như bệnh ung thư.
Bệnh trĩ gây ra cho người bệnh sự đau đớn, chảy máu khi đi đại tiện. Tình trạng chảy máu kéo dài sẽ dễ dẫn đến bị chứng thiếu máu, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh. Khi búi trĩ sa ra ngoài hậu môn, nó có thể sẽ gây ngứa, trầy xước và tạo điều kiện để vi khuẩn xâm nhập qua đường hậu môn, gây viêm nhiễm hậu môn. Khi bệnh trĩ kéo dài và vùng hậu môn bị viêm nhiễm sẽ gây kích thích các tế bào ung thư phát triển ở vùng bị tổn thương.
Các bác sĩ khuyến cáo rằng, những bệnh nhân bị bệnh trĩ lâu ngày nếu có hiện tượng chảy máu thâm đen và có mùi hôi thì phải nghĩ đến khả năng bệnh đã chuyển thành ung thư trực tràng.
II. Bệnh sùi mào gà.
Đây là một căn bệnh lây truyền qua đường tình dục. Biểu hiện của bệnh sùi mào gà là những nụ sùi nhỏ giống như mào gà, hoa lơ ở âm hộ, âm đạo, cổ tử cung, miệng, họng, dương vật hoặc xung quanh hậu môn. Đó là những u lành tính của tế bào do virus HPV, lây truyền chủ yếu qua giao hợp. Thời gian ủ bệnh từ vài tuần đến vài tháng.
Bệnh sùi mào gà làm răng nguy cơ bệnh ung thư cổ tử cung – một loại ung thư gây ra bởi virus HPV, nhiễm HPV xảy ra trước khi xuất hiện các tổn thương loạn sản và sau đó là tổn thương ung thư cổ tử cung.
Nguy cơ của bệnh sùi mào gà là ung thư cổ tử cung, do đó những chị em phụ nữ có sùi mào gà nên làm xét nghiệm soi tế bào âm đạo theo định kỳ để phát hiện bệnh sớm và kịp thời. Những phụ nữ đã quan hệ tình dục cần làm xét nghiệm này 2 năm /lần để loại trừ sớm bệnh ung thư cổ tử cung ở người có sùi mào gà.
Đối với nam giới, nếu không điều trị kịp thời sùi mào gà sẽ gây nên bệnh ung thư dương vật.
III. Viêm gan B.
Virus viêm gan B là nguyên nhân chính gây ra ung thư gan. Trong số những bệnh nhân bị ung thư gan thì có 85% người bệnh có tiền sử viêm gan B. Bác sĩ không thể điều trị dứt điểm các tế bào gan đã bị tổn thương, quá trình điều trị chỉ mang tính chát khống chế diễn biến xấu hơn hơn của bệnh và hạn chế những biến chứng mà bệnh gây ra.
Cả virus viêm gan B và C đều là những nguy cơ chính dẫn tới ung thư gan. Theo số liệu thống kê, có hơn 70% số người mắc bệnh ung thư gan đều có tiền sử nhiễm virus viêm gan B và C. Nhiều bệnh nhân bị viêm gan thường không chú ý đến bệnh tình của mình, vì biến chứng từ viêm gan sang ung thư gan thường sẽ diễn ra rất chậm, khoảng 20 năm.
Đối với những người bị viêm gan B mãn tính thì nguy cơ ung thư gan cao hơn. Bởi người bệnh không biết mình bị mắc bệnh hoặc chủ quan không điều trị kịp thời, điều trị không đúng phương pháp, không hiệu quả và dẫn tới biến chứng.
Viêm gan B chính là nguyên nhân chính gây ra ung thư gan, do đó, mỗi người cần được tiêm phòng vacxin viêm gan B, nếu đang bị viêm gan B thì người bệnh có thể được tiến hành để điều trị kịp thời.
Ngoài việc phòng ngừa viêm gan do virus bằng cách tiêm vacxin thì người bệnh cần có một chế độ ăn uống lành mạnh. Việc ăn uống không cân đối hoặc không hợp vệ sinh có thể là nguyên nhân gây ra ung thư gan. Bệnh nhân nên kiêng rượu, bia, thuốc lá để phòng tránh bệnh ung thư gan hiệu quả.
IV. Sẹo lâu ngày không khỏi.
Các chuyên gia về da liễu cho hay: những tổn thương về da bỏng, sẹo và loét trong thời gian dài mà lại lâu lành có nguy cơ cao trong việc phát triển thành ung thư da. Chúng sẽ phát triển thành ung thư tế bào biểu bì có vảy do viêm mãn tính hoặc thay đổi thành tế bào ác tính. Loại ung thư này dễ dẫn đến di căn hạch và có thể gây tử vong cao nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.
Có 3 loại ung thư da tế bào vảy:
– Ung thư da tế bào vảy có thể phát sinh từ actinic keratoses (dày sừng do nắng), trông như những miếng vảy dày dính trên da. Ung thư da dạng này mềm và có thể cử động tự do, nằm trên phần da đầu hói, trán, tai và mu bàn tay.
– Tế bào vảy xuất hiện ở cacs vùng da bị tổn thương do ánh nắng mặt trời. Chúng là những khối u rắn, cử động được, mọc u lên, nhìn rõ mép và ít có vảy trên bề mặt. Những khối u tế bào vảy dạng này ít khi di căn nhưng có thể xâm lấn cục bộ.
– Loại thứ 3 là các tế bào vảy phát sinh từ vùng da bình thường hoặc phần môi. Chúng rất dễ xâm lấn và có thể di căn đến các hạch bạch huyết trong khu vực.
Ung thư da tế bào vảy thường xuất hiện trên nền tổn thương ung thư và vết sẹo lâu ngày. Ngoài ra, nó có thể xuất hiện ở những vùng da dễ bị tổn thương bởi tia UV như dùng da đầu không có tóc, vùng mặt, cổ, cánh tay, mu bàn tay, mu bàn chân. Khối u thường sần sùi, đau, di căn hạch khu vực hoặc di căn theo đường máu vào phổi, xương, gan và não.
Để xác định ung thư da tế bào thì người ta thường chẩn đoán bằng phương pháp sinh thiết tế bào tổn thương. Nếu kết quả lần đầu dương tính thì có thể sinh thiết lại nhiều mảnh tế bào, sâu và to hơn. Sinh thiết có thể giúp chẩn đoán mô bệnh học, phân loại u và xếp độ mô học ung thư. Nhưng đối với những hạch to cần cân nhắc có nên chọc hút tế bào hay không, vì nó có thể làm vỡ hạch gây lây lan tế bào ung thư ra các vùng xung quanh.
Theo Healthplus.vn