I. Phụ nữ đang ở độ tuổi sinh đẻ điều trị bằng thuốc kháng virut thì lúc nào có thể mang thai?
Thí nghiệm động vật chưa phát hiện loại thuốc này ảnh hưởng tới thai nhi và sinh dục, nhưng với con người có nị nguy hiểm không, chưa có tài liệu nào nói rõ. Thông thường cho rằng sau khi ngừng uống thuốc kháng virut được ½ năm thì mang thai mới coi là an toàn.
II. Người mang thai bị viêm gan mạn tính mà công năng gan bị tổn hại có làm bệnh nặng hơn hay không?
Có tài liệu cho rằng, hệ số tử vong chứng viêm gan B mạn tính trong thời kỳ mang thai sẽ gấp 3 lần so với người bị viêm gan không mang thai. Gan là khí quan điều tiết sự thay thế và giải độc, với phụ nữ bị mang thai thì gan phải gánh vác nặng nề hơn, nhất là ở cuối kỳ mang thai di sự thay cũ đổi mới thịnh vượng, nhiệt lượng cần dùng hằng ngày tăng 20% so với bình thường, nhu cầu các chất sắt, calci, protein và vitamin cũng tăng lên đáng kể. Nếu do gan viêm mà dẫn tới ăn uống không ngon, chán dầu mỡ, hơn nữa người mang thai bị nôn mửa, làm cho việc hấp thụ các chất dinh dưỡng vào cơ thể kém đi, nhất là thiếu protein, càng dễ làm cho gan bị tổn thương. Ngoài ra việc hô thấp, bài tiết của thai nhi phải dựa vào mẹ, thế tất làm cho gan của mẹ phải gánh chịu nặng nề hơn. Như phụ nữ mang thai mắc chứng gan B mạn tính mà năng lực thay thế của gan tốt và công năng gan tương đối ổn định, thông thường cho rằng mang thai không ảnh hưởng tới người mang thai, chỉ cần nghỉ ngơi và dinh dưỡng thì sẽ không biến thành viêm gan B loại nặng. Nhưng loại người bệnh này vẫn thuộc về mang thai nguy hiểm cao, cần được thầy thuốc theo dõi chặt chẽ trong thời kỳ mang thai, đến khi sắp sinh phải vào viện, sinh đẻ ở đấy, đề phòng phát triển thành viêm gan loại nặng. Còn người mang thai bị gan B mạn tính có chứng viêm gan hoạt động rõ rệt, thì không thích hợp tiếp xúc mang thai, để phòng ngừa phát sinh viêm gan loại nặng.
III. Phụ nữ mang thai bị viêm gan B mạn tính có thể uống những loại thuốc bảo vệ gan gì?
Phụ nữ bị gan B mạn tính trong thời kỳ mang thai, cần hết sức giảm bớt sử dụng các loại thuốc, nhưng nếu công năng gan khác thường, vẫn phải tự suy tính tích cực tiến hành điều trị bảo vệ gan. Hiện nay có tư liệu chứng nhận, thuốc sử dụng an toàn có đường gluco, vitamin C, vitamin K, thuốc bổ gan, acit amin, có một số thuốc đông y chế sẵn như thùy bồn thảo, ích gan linh cũng có thể dùng được. Hiện nay nhiều thuốc bảo vệ gan có đủ an toàn với thai nhi đang còn chờ nghiên cứu, nói chung không nen sử dụng, nhưng đàn bà mang thai đừng lo không có thuốc để dùng. Trên thực tế tác dụng thuốc bảo vệ gan rất hạn chế. Điều trị tổng hợp giữa nghỉ ngơi với tăng cường dinh dưỡng, có thể làm cho bệnh tình số lớn người phụ nữ mang thai được cải thiện, người bị gan B mạn tính trong thời kỳ mang thai tốt nhất nên đến sản khoa chuyên môn bệnh gan để khám, thầy thuốc ở đấy sẽ cân nắc một cách toàn diện bệnh gan và tình hình mang thai của bạn mà định ra phương án điều trị tổng hợp.
IV. Phụ nữ mang thai bị viêm gan B mạn tính truyền nhiễm sang thai nhi và trẻ sơ sinh bằng con đường nào?
Về y học gọi là truyền bá mẹ con, hiện nay cho rằng chủ yếu truyền bá những con đường sau đây:
(1) Người mang thai trong quá trình sinh đẻ đem virut gan B truyền nhiễm cho trẻ sơ sinh. Trẻ sơ sinh qua con đường sinh đẻ dễ bị rách niêm mạc trên da hoặc hút huyết của mẹ có chứa virut gan B, nước ối và chất phân tiết ở âm đạo mà bị nhiễm, thường chiếm 80% ca mẹ truyền qua còn.
(2) Ngoài ra một số ít bị lây nhiễm trong tử cung virut gan B xuyên qua nhau thai mà truyền nhiễm cho thai nhĩ, gọi là truyền bá ở tử cung, chiếm 5% – 15% ca mẹ truyền sang con, nhưng những trường hợp ít thấy.
Theo Healthplus.vn