Táo bón là điều than phiền cực kỳ thông thường. Các bệnh nhân dùng từ này một cách khác nhau để nói đến phân quá rắn nhỏ hoặc hiếm lần đi hoặc căng thẳng thái quá khi đại tiện. Vì vậy, bước đầu tiên khi đánh giá bệnh nhân là xác định “táo bón” của người đó có nghĩa là gì. Trong nhân dân nói chung, số lần đi đại tiện được coi là “bình thường” là rộng rãi, đi từ 3 đến 12 lần trong một tuần. Với nhiều bệnh nhân, điều than phiền có thể phản ánh một nhận thức sai lầm về hình thái thải phân bình thường. Từ góc độ y học, có táo bón là khi bệnh nhân đại tiện hai hay ít hơn mỗi tuần hoặc quá khó khăn và căng thẳng khi đại tiện. Nhiều nguyên nhân có thể loại như thảo luận dưới đây và tóm tắt trong bảng 13-3.
Bảng 13-3. Các nguyên nhân gây táo bón ở người lớn.
Thông thường nhấtChế độ ăn ít chất xơCác thói quen đại tiện không tốt
Các bất thường cấu tạo
Bệnh quanh hậu môn: nút, áp xe, trĩ nghẽn mạch
Tổn thương có khối ở ruột kết với tắc ruột ung thư tuyến
Chỗ nghẽn ở ruột kết: chứa nhiều túi thừa, chiếu tia xạ, thiếu máu cục bộ
Bệnh Hirschprung
Trực tràng to tự phát
Bệnh toàn thân
Nội tiết: suy giáp trạng, cường cận giáp trạng, đái tháo đường
Chuyển hóa: giảm kaki huyết, tăng calci huyết, tăng ure huyết
Thần kinh: liệt chi dưới, bệnh Parkinson, xơ cứng tỏa lan, mổ trong khung chậu trước đây gây đứt các dây thần kinh trong hố chậu
Các loại khác: thoái hóa dạng tinh bột, xơ cứng bì
Các thuốc
Thuốc ngủ
Thuốc lợi tiểu
Các thuốc chặn kênh calci
Các tác nhân ảnh hưởng tâm thần
Các thuốc kháng acid
Chuyển qua ruột kết chậm
Tự phát: CHỉ riêng biệt ở ruột kết hoặc một phần của rối loạn toàn cơ thể
Do căn nguyên tâm lý
Giả tắc ruột mãn tính
Thoát ra chậm
Túi phình trực tràng
Lồng trực tràng
Sa trực tràng
Sa đáy chậu
Hậu môn không giãn |
I. Các nguyên nhân táo bón có thể xác định được.
A. Có thói quen ăn uống và hành vi không tốt. Đa số trội hơn hẳn các bệnh nhân có các triệu chứng nhẹ không thể quy cho bất kỳ bệnh nào về cấu tạo, về các rối loạn của ruột hoặc bệnh toàn thân. Việc xem xét lại kỹ lưỡng về chế độ ăn sẽ bộc lộn rằng phần lớn các bệnh nhân này không ăn uống đủ chất xơ và chất lỏng. Việc ăn 10-12 g chất xơ hằng ngày hoặc bằng những thay đổi chế độ ăn hoặc thêm vào hoặc bổ sung chất xơ mua sẵn thườn là điều cần làm. Ít nhất trong bữa ăn phải uống một hay hai cốc chất lỏng. Phải khuyến khích bệnh nhân chú ý đến “ sự kêu gọi đại tiện” thường xảy ra một cách điển hình sau bữa ăn (phản xạ dạ dầy-ruột kết). Đặc biệt những người già dễ bị táo bón do các thói quen ăn uống không tốt, một loạt các thuốc men gây táo bón, giảm tính di động ruột kết và trong một số trường hợp, không có khả năng ngồi trên bệ xí (các bệnh nhân nằm liệt giường).
B. Các bất thường cấu tạo. Các tổn thương ruột kết làm tắc đường đi của phân phải được loại trừ ở bệnh nhân bị táo bón. Sự quan tâm đặc biệt được nâng cao đối với các bệnh nhân bị táo bón suốt đời (bệnh Hirschprung) và các bệnh nhân trên 50 tuổi với chứng táo bón mới bắt đầu, phan bị nhỏ dần đi hoặc liên quan với sụt cân hoặc phân có máu tươi.
C. Các bệnh toàn thân. Các bệnh nội khoa có thể gây ra táo bón do rối loạn chức năng thần kinh ruột, cac rối loạn nội tiết và các bất thường về các điện giải.
II. Những nguyên nhân gây táo bón nặng hoặc dai dẳng.
Các bệnh nhân mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đâp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn. Về mặt khái niệm có thể chia các bệnh nhân này thành 2 loại.
A. Sự trì trệ của ruột kết.
Một số bệnh nhân có sự vận chuyển trì hoãn tự phát của phân qua ruột kết. Quá cảnh ruột kết bình thường cần thời gian xấp xỉ 35 giờ, nếu trên 72 giờ là sự bất thường có ý nghĩa. SỰ trì trệ nặng ở ruột kết thường gặp hơn ở phụ nữ, một số trong họ có tiền sử có các vấn đề tâm lý-xã hội hoặc lạm dụng tình dục. Sự trì trệ ruột kết có thể là một bộ phận của hội chứng rối loạn di động dạ dầy-ruột rộng rãi hơn. Nó cũng có thể được quy cho nhiều năm lạm dụng thuốc tẩy nhẹ (ruột kết nghiện thuốc tẩy).
B. Các rối loạn đường ra.
Các bệnh nhân bị rối loạn trực tràng và sàn hố chậu có thể gặp khó khăn trong chuyển vận phân ra khỏi trực tràng. Họ có thể than phiền là quá căng thẳng vơi cảm giác không tháo đi hoàn toàn được, cần phải dung ngón tay ấn vào âm đạo hoặc đáy chậu, hoặc thậm chí lấy tay móc chỗ chèn chặt. Phần lớn các bệnh nhân này là phụ nữ. Các khó khăn trong đại tiện có thể do nhiều vấn đề giải phẫu học, cản trở hoặc lm tắc dòng đi, một số vấn đề này có thể nhờ phẫu thuật giải quyết. Ở các bệnh nhân khác, sàn hố chậu không thư giãn được khi rặn đại tiện (không giãn hậu môn); có thể điều trị chứng này bằng các bài tập thư giãn và rèn luyện thông tin phản hồi sinh học.
III. Đánh giá.
A. Điều tra bước đầu.
Tất cả các bệnh nhân phải được khai thác bệnh sử chu đáo và thăm khám thực thể, kể cả thử nghiệm phân tìm máu kín đáo. Các nghiên cứu la bô thường bao gồm đếm máu toàn bộ, xét nghiệm các điện giải bao gồm calci và hocmon kích thích tuyến giáp trong huyết thanh (TSH). Đối với các bệnh nhân bề ngoài là khỏe mạnh với các triệu chứng nhẹ và ở tuổi dưới 50, việc thử điều trị bảo tồn với chất xơ là hợp lý. Đối với các bệnh nhân trên 50 tuổi, những người đã không đạt hiệu quả với điều trị bảo tồn, hoặc những người bị thiếu máu hoặc có máu kín đáo trong phân, nội soi đại tràng sigma bằng ống mềm và thụt barit hoặc nội soi ruột kết được thực hiện để tìm các tổn thương cấu tạo ruột kết. Các bệnh nhân rõ ràng không có bệnh trong cấu tạo, nội khoa hoặc thàn kinh có khi bước đầu điều trị bằng cách bổ sung chất xơ( và các thuốc nhuận tràng thẩm thấu nếu cần).
B. Điều tra bước hai.
Các bệnh nhân táo bón dai dẳng không đáp ứng với các biện pháp bảo tồn có thể cần phải điều tra thêm.
1. Nghiên cứu vận chuyển ruột kết. Để xác định rằng bệnh nhân thật sự táo bón và đo lượng thời gian quá cảnh, cho bệnh nhân nuốt 24 mảnh chất dẻo đánh dấu cản quang trong 3 ngày. CHụp X quang bụng vào ngày thứ 4 và thứ 7 và đếm toàn bộ số mảnh đánh dấu còn lại trong ruột kết.
2. Các nghiên cứu về chức năng sàn hố chậu. Để chuẩn đoán các rối loạn đường ra của trực tràng-hậu môn, quay băng đại tiện đồ( nghiên cứu video lấy được trong lúc rặn và đại tiện) và đo áp lực hậu môn là hữu ích. Tuy nhiên các nghiên cứu này không sẵn có rộng rãi để làm.
Theo Healthplus.vn