I. Người bị viêm gan B mạn tính phải thường xuyên phúc tra “hai đối nửa gan B” chăng?
Người bị viêm gan B mạn tính có phải cần thường xuyên phúc tra “hai đối nửa gan B” không? Thời gian kiểm tra phải cách nhau bao nhiêu lâu, hiện nay chưa có tiêu chuẩn thống nhất, mà cũng không thể nói chung được. Người bị viêm gan B mạn tính tiếp nhận điều trị chống virut, để quan sát được kết quả điều trị chừng ½ năm đến 1 năm kiểm tra một lần là được. Nhưng nếu bệnh viêm gan nặng lên, cần kiểm tra 1 lần để đánh giá virut có tái tạo sôi nổi không, hoặc biến đổi khác lạ không, để kịp điều chỉnh phương án điều trị.
Việc phúc tra thường xuyên “hai nửa đối gan B” nhằm quan sát bệnh tình đạt ý nghĩa nhất định, nhưng chi phí lại rất cao, với người không không tiến hành điều trị virut bệnh thì ý nghĩa còn quan trọng hơn là phúc tra công năng gan.
II. Người bị viêm gan B mạn tính có cần phải kiểm trắc HBV-DNA không?
HBV – DNA là tiêu chí tốt nhất phán đoán tốt nhất virut viêm gan B có tái tạo hay không hiện nay, do kỹ thuật kiểm trắc ngày càng hoàn thiện và chi phí hạ thấp dần mà được ứng dụng trên lâm sàng ngày càng nhiều. Thông thường nên tiến hành kiểm trắc HBV – DNA theo tình huống dưới đây:
(1) Người mới phát hiện bị viêm gan B mạn tính cần tiến hành kiểm trắc HBV – DNA, để tiện đánh giá sức chịu đựng của virut, định ra phương án điều trị hợp lý.
(2) Trước khi điều trị trong quá trình điều trị và sau điều trị ½ năm, từ 2 – 4 tuần nên tiến hành kiểm tra HBV – DNA, đánh giá kết quả điều trị chống virut.
(3) Công năng gan biến đổi khác thường ngày càng nặng hơn hoặc mắc đi mắc lại, tiến hành kiểm tra HBV – DNA để phán đoán hoạt động viêm gan có liên quan với việc tái tạo virut sôi nổi không, để quyết định có cần áp dụng biện pháp khẩn cấp trong điều trị chống virut.
(4) Kết hôn và trước khi sinh đẻ có kế hoạch cần tiến hành kiểm trắc HBV – DNA, để đánh giá mức độ nguy hiểm trong truyền bá virut qua con đường tình dục và quan hệ mẹ con, để có biện pháp dự phòng tốt.
(5) Người bị viêm gan B mạn tính, trước khi đi nhà trẻ, đi học, cần kiểm tra HBV – DNA để đánh giá tính truyền nhiễm.
(6) Do các bệnh tật khác phải điều trị các loại thuốc có ảnh hưởng tới gan, cần kiểm trắc HBV – DNA trước khi áp dụng biện pháp điều trị này.
III. Những nhân tố nào có thể dẫn đến bệnh viêm gan B mạn tính trở nên xấu hơn?
Những nhân tố thường thấy bao gồm mấy mặt sau đây:
(1) Mệt mỏi: Mệt mỏi làm cho sự gánh vác của gan nặng hơn, là nhân tố làm cho bệnh gan xấu hơn thường thấy nhất. Mệt mỏi không chỉ nói về lao động chân tay, mà lao động trí óc quá nặng, tiên tục mất ngủ cũng là nhân tố thường thấy.
(2) Uống rượu: Cồn rượu mang chất độc cho gan, uống rượu lâu ngày làm cho gan trúng độc cồn rượu. Mà người viêm gan B mạn tính uống rượu khác nào “lửa đổ thêm dầu”.
(3) Uống thuốc làm tổn hại gan hoặc tiếp xúc với chất độc làm tổn hại gan như thuốc chống kết hạch, thuốc chống tuyến giáp trạng; thuốc đông y làm tổn hại gan cũng không phải ít, như thuốc chữa viêm khớp, thuốc chữa vẩy nến. Do làm việc ở môi trường có chất cacbon tetracloride, trichloroethylene, những nhân tố này làm nặng thêm bệnh gan.
(4) Lây nhiễm kép các virut thích ăn gan như lây nhiễm virut gan A, virut gan B, viêm gan gan E, virut gan D, virut tế bào cự phệ, virut EB.
Tục ngữ có câu: Chữa gan 3 phần, nuôi gan 7 phần là rất có lý. “Nuôi” có ngĩa là biết kết hợp lao động và nghỉ ngơi,không để các nhân tố gây bệnh phát sinh.
Theo Healthplus.vn