I. Điều trị thông thường bệnh táo bón.
A. Các biện pháp ăn uống.
Phải nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ăn uống đầy đủ chất lỏng và chất xơ. Có thể cho chất xơ qua việc thay đỏi chế độ ăn hoặc qua bổ sung chất xơ. Chất xơ trong ăn uống tăng lên có thể gây nên chướng bụng và đầy hơi tạm thời trong một số trường hợp. Cần phải nhấn mạnh rằng tuy chất xơ có cho phần lớn các bệnh nhân táo bón, nó thường không có ích cho các bệnh nhân bị trì trệ hoặc các rối loạn đường ra. Các loại bổ sung chất xơ bao gồm:
1. Bột cám. Một đến hai thìa canh bột cám hai lần mỗi ngày trộn vào các chất lỏng hoặc rắc trên các thức ăn là một phương tiện rất tốt và không tốn kém để cung cấp 10-20 g/ ngày chất xơ.
2. Các loại bổ sung dược liệu. Nhiều loại bổ sung chất xơ là dạng thuốc, tuy nhiên, chúng đắt tiền hơn nhiều so với bột cám. Chúng sẵn có trong nhiều loại bột có hương vị, bánh quy hoặc viên dễ ăn uống, hấp dẫn đối với bệnh nhân. Hơn nữa, chúng có thể kém gây đầy hơi hơn cám đối với một số bệnh nhân. Các chế phẩm bao gồm psyllim, 3.4 g và methylcellulose, 2 g, một đến ba lần mỗi ngày (cả hai đều là các chất xơ lấy từ chất rau); và polycarbophil, 1g một đến bốn lần hằng ngày( chất xơ tổng hợp).
B. Các thuốc nhuận tràng thẩm thấu.
Các tác nhân này có thể dùng để làm mềm phân. Có thể cho dùng riêng hoặc phối hợp với các loại bổ sung chất xơ. Chúng thường dùng cho các bệnh nhân già không tự đi lại được hoặc các bệnh nhân ở một cơ sở từ thiện( cứu tế, dưỡng lão) để dự phòng táo bón và phân chèn chặt. Có thể dùng chúng dài hạn và không gây sự phụ thuộc (tình trạng nghiện). Các tác nhân được chuẩn độ một cách đặc trưng ở một liều có tác dụng làm phân mềm hoặc nửa lỏng.
1. Các chất đường không hấp thụ được. Lactulose hoặc sorbitol, 15-60ml hằng ngày đều có hiệu quả như nhau. Các chất đường không hấp thụ được này có thể làm căng, chuột rút và đầy hơi.
2. Magnesi hydoxid. Thường được cho liều 15-30ml hằng ngày. Không được dùng cho các bệnh nhân suy thận.
C.Các tác nhân thấm ướt phân: Các tác nhân thấm ướt làm trơn phân (docusate natri, 50-200 mg/ngày) có thể cho uống hoặc đặt vào trực tràng để tăng cường làm mềm phân.
II. Điều trị táo bón mãn tính hoặc dai dẳng.
Phần lớn các bệnh nhân loại này sẽ được chuyển đến một trung tâm chuyên môn quan tâm và có trình độ tinh thông về các vấn đề khó khăn này.
A. Sự trì trệ của ruột kết Nhiều bệnh nhân cần sử dụng lâu dài thụt tháo và các tác nhân nhuận tràng(xem dưới đây). Các bệnh nhân với các vấn đề tâm lý hoặc có tiền sử bị lạm dụng tình dục có thể được trị liệu tâm thần. Trong những trường hợp đặc biệt nặng, có thể phải cắt bỏ một phần ruột kết.
B. Các rối loạn đường ra Một số vấn đề giải phẫu( như sa trực tràng, trực tràng, trực tràng túi thông âm đạo) có thể được sửa chữa bằng phẫu thuật. Các kỹ thuật như giãn và thông tin phản hồi sinh học hiện đang được sử dụng cho các bệnh nhân bị rối loạn chức năng sàn hố chậu.
III. Điều trị táo bón cấp tính.
Những người bình thường và các bệnh nhân táo bón mãn tính có thể bị táo bón cấp tính do đáp ứng với bệnh nội khoa hoặc ngoại khoa cấp tính, các thay đổi ăn uống, dùng thuốc, chuyến đi dài ngày v..v..Nếu, đã qua nhiều ngày từ lần đại tiện gần đây nhất, các liệu pháp được mô tả ở trên đôi với táo bón mãn tính sẽ không đầy đủ để gay ra sự thoát phân nhanh chóng và làm giảm khó chịu. Trong các trương hợp này có thể cho các tác nhân sau đây (thận trọng không được dùng các tác nhân này cho các bệnh nhân có khả năng bị tắc ruột kết hoặc chèn chặt phân).
A. Thuốc tẩy nhuận tràng. Các nhân tố này kích thích bài tiết chất lỏng và co bóp ruột kết, đưa đến đại tiện trong 6-12 giờ sau khi được uống vào hoặc 15-60 phút sau khi đặt trực tràng. Chúng có thể gây đau thắt và tiêu chảy. Các tác nhân dùng ở điều kiện chữa bệnh bao gồm cascara sagrada (vỏ cây) 4-8ml uống; bisacodyl 5-15mg uống hoặc 10mg thuốc đặt trực tràng; và dầu thầu dầu, 15-45 ml, uống. Lá cây keo và phenolphthalein là những thuốc tẩy uống qua da, thường không được chỉ định.Ghi chú Dùng lâu dài bất kỳ tác nhân nào thuộc loại này có thể đưa đến mất chức năng bình thường cơ-thần kinh của ruột kết.
B. Thuốc thẩm thấu nhuận tràng. Các thuốc nhuận tràng thẩm thấu làm thoát phân nhanh chóng trong ½-3 giờ, thường là dễ chịu hơn khi cho các thuốc nhuận tràng tẩy xổ. Chúng được dùng trong mục đích y tế để tẩy trước khi mổ hoặc thăm khám ruột kết. Các chế phẩm bao gồm magnesi citrate, 18g/10 ao-xơ; magnesi sulfat 10-30 g “muối épom”; natri phosphate 10-30 g (2-45 ml); dung dịch rửa ruột căn bằng polyethylene glycol, 1-4l trong 1-4 giờ (go LYTELY, colyte).
C. Thụt. Việc thụt cung cấp một phương tiện đơn giản và hầu như tức khắc làm giảm nhẹ táo bón cấp tính. Trong những trường hợp táo bón nặng, tốt nhất là làm thụt tháo đầu tiên để làm cho đại tiện dễ chịu trước khi cho thuốc nhuận tràng. Các loại thụt khác nhau về cỡ và thành phần thụt: nước muối 120-240ml (không kích thích); thụt nước ở vòi mày 500-1000 ml (gây kích thích); và thụt dầu 120 ml (có ích cho việc tháo phân rắn hoặc nén chặt).
IV. Điều trị nén chặt phân.
Sự nén chặt phân nặng ở vóm trực tràng có thể đưa tới tắc dòng phân đi tiếp, dẫn tới tắc ruột kết một phần hoặc toàn bộ. Các nhân tố dẫn dắt bao gồm bệnh tâm thần nặng, nằm tại giường kéo dài và suy nhược. Biểu hiện lâm sàng bao gồm giảm ăn ngon miệng, buồn nôn, nôn, đau và căng chướng bụng. Có thể xảy ra “tiêu chảy” nghịch lý vì phân lỏng rỉ xung quanh phân bị nén chặt. Có thể sờ thấy phân chắc khi thăm bằng ngón tay ở vòm trực tràng. Điều trị ban đầu hướng về làm giảm nén chặt bằng cách thụt hoặc dùng ngón tay làm vỡ chất phân nén chặt. Phải thận trọng không làm tổn thương cơ thắt hậu môn. Hiếm khi cần phải gây mê tủy sống hoặc toàn thân để hỗ trợ cho việc dùng ngón tay làm vỡ khối phân nén chặt. Việc chăm sóc dài hạn hướng về duy trì phân mềm và đại tiện đều đặn (như trên).
Theo Healthplus.vn